Bản án 27/2017/HNGĐ-ST ngày 14/07/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 27/2017/HNGĐ-ST NGÀY 14/07/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 14 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 216/2017/TLST - HNGĐ ngày 15/5/2017 về việc: “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2017/QĐXX-ST ngày 12 tháng 6 năm 2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị X, sinh năm 1987. HKTT: Xóm N, xã V, huyện Đ, thành phố Hà Nội. Địa chỉ: Thôn Th, xã V, huyện Đ, thành phố Hà Nội.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1981.

Địa chỉ: Xóm N, xã V, huyện Đ, thành phố Hà Nội.

Có mặt: chị X. Vắng mặt: Anh N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn ghi ngày 19 tháng 4 năm 2017 và những lời khai tiếp đó của nguyên đơn trong vụ án là chị Nguyễn Thị X trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn N xây dựng gia đình với nhau ngày 22/02/2011 trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới, do anh N chưa có chứng minh nhân dân nên phải đến ngày 22/02/2012 mới làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V. Cưới xong, vợ chồng ở chung nhà với gia đình anh N được một thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn giữa vợ chồng, dẫn đến mâu thuẫn giữa chị và gia đình chồng. Căng thẳng nhất là từ tháng 12/2015,anh N đóng cửa dùng điếu cày đánh chị, chị phản ứng lại bằng việc dùng tay đẩy anh ngã xuống va vào tay vịn ghế, mẹ con anh N vu cho chị đánh chồng, chị đã phải mang con về nhà bố mẹ đẻ chị ở. Anh B là em trai và những người thân trong gia đình anh N còn đến nhà chị xúc phạm bố mẹ đẻ chị và bảo chị làm đơn ly hôn càng sớm càng tốt. Từ đó vợ chồng sống ly thân, không còn trách nhiệm, tình cảm gì với nhau trong cuộc sống.

Theo chị, nguyên nhân chính dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng là do tìm hiểu không kỹ, chị không biết anh N là người nghiện rượu, phải đi cai nghiện một thời gian trước khi cưới chị. Trong thời gian chung sống, anh N vẫn nghiện rượu và không làm ăn, quan tâm gì đến vợ con, gia đình lại còn hay đánh chửi và đuổi chị. Chị xác định hôn nhân của vợ chồng không hòa thuận, hạnh phúc nên xin chị được ly hôn để sớm ổn định cuộc sống.

* Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Duy M, sinh ngày 15/6/2012, hiện cháu khỏe mạnh và đang ở cùng chị. Khi ly hôn, chị có nguyện vọng được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh N cấp dưỡng vì anh bệnh tật, không có khả năng về kinh tế. Hiện nay chị đang làm công nhân của Công ty trách nhiệm hữu hạn Tràng An, khu công nghiệp Quang Minh, thu nhập bình quân 5.470.000 đồng/tháng, đảm bảo để mẹ con nuôi nhau.

* Về tài sản, công sức, nợ và đất nông nghiệp chung: Chị xác định vợ chồng không có gì nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Về chỗ ở: Hiện nay mẹ con chị đang ở tại nhà của bố mẹ đẻ chị thuộc thôn Th, xã V đảm bảo không gặp khó khăn gì nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ở tại nhà đất của gia đình anh N.

Tại Biên bản lấy lời khai ngày 16/5/2017 của Tòa án, bị đơn trong vụ án là anh Nguyễn Văn N trình bày: Anh thống nhất với chị X khai về điều kiện, thời gian kết hôn, thời gian mâu thuẫn, tình trạng hôn nhân của vợ chồng hiện nay. Theo anh, tuy vợ chồng có mâu thuẫn nhưng chỉ làm những va chạm lặt vặt trong sinh hoạt hàng ngày, chưa đến mức sâu sắc, căng thẳng. Anh vẫn còn tình cảm với chị X và muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng nhau làm ăn nuôi dạy con chung, anh không đồng ý ly hôn.

* Về con chung: Anh nhất trí với chị X khai về con chung và anh cũng có nguyện vọng được nuôi con khi vợ chồng ly hôn. Hiện nay, anh đang làm thợ xây tự do thu nhập bình quân mỗi tháng 9.000.000 đồng.

* Về tài sản, công sức, nợ và đất nông nghiệp chung: Vợ chồng không có gì chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Về chỗ ở: Nhà đất của gia đình anh có từ trước khi chị X về làm dâu, nên chị Xuyến phải tự lo chỗ ở khác khi ly hôn.

Tại phiên toà, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị X vẫn giữ nguyên lời khai và quan điểm của mình như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội phát biểu ý kiến:

- Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án đã thực hiện hoàn toàn đầy đủ, đúng với các qui định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Nguyên đơn trong vụ án đã chấp hành đầy đủ các Thông báo và Quyết định tố tụng của Toà án, chấp hành đúng các qui định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Bị đơn trong vụ án không chấp hành đầy đủ các Thông báo và Quyết định tố tụng của Toà án, các qui định của pháp luật tố tụng dân sự. Vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 28, Điều 70 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xử:

- Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị X đối với anh Nguyễn Văn N.

- Về con chung: Giao cho chị X tiếp tục nuôi dưỡng cháu Nguyễn Duy M. Không phải giải quyết về cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản, công sức, nợ và đất nông nghiệp: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ, vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng: Quá trình giải quyết, xét xử vụ án anh Nguyễn Văn N không tham gia mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các Thông báo, Quyết định tố tụng. Anh N vắng mặt không đến các phiên tòa không có lý do. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn quyết định đưa vụ án ra xét xử và giành quyền kháng cáo cho đương sự theo thủ tục chung.

Về nội dung:

[1]. Về tình cảm:

Chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Văn N kết hôn với nhau ngày  22/02/2011, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, hôn nhân đó là hợp pháp.

Quá trình chung sống, anh chị hoà thuận, hạnh phúc được thời gian ngắn sau khi cưới thì xảy ra mâu thuẫn vợ chồng dẫn đến mâu thuẫn giữa chị X và gia đình anh N. Nguyên nhân chính là do anh N mắc chứng nghiện rượu, không chịu làm ăn, không quan tâm đến vợ, con và gia đình lại hay đánh, chửi đuổi chị X. Gia đình anh N không khuyên bảo con lại bênh vực anh N, đã dẫn đến mâu thuẫn giữa chị X và gia đình chồng căng thẳng. Từ tháng 11 năm 2015, chị X về nhà bố mẹ đẻ chị ở không quay lại nhà anh N nữa, vợ chồng đã sống ly thân nhau đến nay.

Xét thấy, để có một cuộc hôn nhân hoà thuận, hạnh phúc phải dựa trên cơ sở của sự thương yêu, tôn trọng, tin tưởng và giúp đỡ lẫn nhau giữa vợ chồng và người thân trong gia đình. Đối với anh N và chị X thì không được như vậy, hai bên không có sự tôn trọng, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Khi anh chị mâu thuẫn, hai gia đình cũng không khuyên bảo, dàn xếp cho anh chị, quan hệ tình cảm giữa chị X và mẹ anh N và hai gia đình thông gia cũng không có sự tôn trọng nhau. Như vậy, mục đích của hôn nhân không đạt được là xây dựng một gia đình hạnh phúc, nếu tiếp tục tồn tại sẽ không đảm bảo bền vững, lâu dài, anh N xin đoàn tụ nhưng không đưa ra được biện pháp gì để cải thiện quan hệ vợ chồng. Vì vậy, cần giải phóng cho anh chị sớm ổn định cuộc sống riêng của mình là phù hợp với nhận xét của hai gia đình và địa phương, phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[2]. Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Nguyễn Duy M, sinh ngày15/6/2012, cháu khỏe mạnh bình thường và đang do chị X trực tiếp nuôi dưỡng.

Khi ly hôn, chị X, anh N đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu bên kia cấp dưỡng hàng tháng.

Xét nguyện vọng được trực tiếp nuôi con khi ly hôn của anh chị đều là chính đáng, thể hiện tình cảm và trách nhiệm của cha mẹ đối với con. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi phải xét đến điều kiện về mọi mặt của cha mẹ, quyền lợi của trẻ được quy định tại các Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Hiện nay, chị X có sức khỏe, việc làm với thu nhập ổn định, trong khi anh N mắc chứng nghiện rượu, mẹ đẻ anh cho biết anh đang phải dùng thuốc điều trị tại nhà, hạn chế về sức khỏe, làm việc và thu nhập nên không đảm bảo nuôi bản thân anh và nuôi con được. Vì vậy, khi anh chị ly hôn nên giao cho chị X tiếp tục nuôi cháu Mạnh và tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh N đến khi con chung thành niên, hoặc có quyết định khác của Tòa án là phù hợp.

[3]. Về tài sản, công sức, nợ và đất nông nghiệp chung: Chị X và anh N cùng có lời khai xác định vợ chồng không có gì nên Tòa án không phải xem xét, giải quyết.

[4]. Về chỗ ở: Chị X tự nguyện lo chỗ ở khi ly hôn, không yêu cầu được ở tại nhà đất của gia đình anh N. Quan điểm đó của chị là tự nguyện, phù hợp với Điều 63 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên ghi nhận.

[5]. Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng, chị X phải chịu cả để sung công quỹ Nhà nước

[6]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên

Căn cứ:

QUYẾT ĐỊNH

- Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Khoản 1 Điều 28, Điều 220, Khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 củaBộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết.

 Xử  :

1, Chị Nguyễn Thị X được ly hôn anh Nguyễn Văn N.

2, Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Duy M, sinh ngày 15/6/2012. Giao cho chị X tiếp tục nuôi dưỡng con chung, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh N đến khi con chung thành niên hoặc có quyết định khác của Tòa án.

Anh N có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3, Về tài sản, công sức, nợ và đất nông nghiệp chung: Không có.

4, Về chỗ ở: Ghi nhận sự tự nguyện của chị X tự lo chỗ ở khi ly hôn, không yêu cầu được ở lại nhà đất của gia đình anh N.

5, Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng), chị Nguyễn Thị X phải chịu cả. Chị X đã nộp đủ 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000396 ngày 15/5/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh, nay được chuyển thành tiền án phí để sung công quỹ Nhà nước.

6, Án xử công khai sơ thẩm. Chị Nguyễn Thị X có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn N có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 27/2017/HNGĐ-ST ngày 14/07/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:27/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;