TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 271/2022/HS-PT NGÀY 29/07/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC CHO NGƯỜI KHÁC NHẬP CẢNH TRÁI PHÉP
Vào ngày 29 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 248/2022/TLPT-HS ngày 17/6/2022 đối với bị cáo Hoàng Đình H và các bị cáo khác về tội “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép”. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2022/HS-ST ngày 06/5/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.
- Bị cáo có kháng cáo:
1. Hoàng Đình H, sinh ngày 21 tháng 6 năm 1991, tại tỉnh Phú Thọ; Nơi cư trú: tỉnh Phú Thọ; Nghề nghiệp: lao động phổ thông; Trình độ văn hóa: 9/12; Con ông Hoàng Đình T và bà Phùng Thị G, có vợ Dương Thị Hồng N, chưa có con.
Tiền án, tiền sự: không.
Bị tạm giữ, tạm giam ngày 24/01/2021, có mặt.
2. Nguyễn Văn N, sinh ngày 25 tháng 12 năm 1986, tại tỉnh Phú Thọ; Nơi cư trú: tỉnh Phú Thọ; Nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hóa: 11/12; Con ông Nguyễn Mạnh H (đã chết) và bà Đinh Thị T; có vợ Phạm Thị Thanh H và 01 con.
Tiền án: Ngày 23/9/2020, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xử phạt 12 tháng tù về tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài trái phép”.
Tiền sự: không;
Bị tạm giữ, tạm giam ngày 24/01/2021, có mặt.
3. Vũ Đức D, sinh ngày 22 tháng 3 năm 1977, tại tỉnh Hưng Yên; Nơi cư trú: tỉnh Hưng Yên; Nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hóa: 7/12; Con ông Vũ Đ M và bà Nguyễn Thị T; có vợ Nguyễn Thị T và 03 con.
Tiền án, tiền sự: không.
Bị tạm giữ, tạm giam ngày 01/01/2021, có mặt.
4. Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 12 tháng 12 năm 1970, tại tỉnh Bình Định; Nơi cư trú: Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hóa: 8/12; Con ông Nguyễn Ngọc X (đã chết) và bà Nguyễn Thị K; có vợ Huỳnh Thị B D (đã ly hôn) và 01 con. Chung sống với Nguyễn Thị H có 02 con.
Tiền án, tiền sự: không;
Bị tạm giữ, tạm giam ngày 23/01/2021, có mặt.
5. Lê Văn T (U) sinh ngày 20 tháng 3 năm 1989, tại tỉnh Bình Định; Nơi cư trú: tỉnh Bình Định; Nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hóa: 9/12; Con ông Lê C (đã chết) và bà Bùi Thị C; có vợ Nguyễn Thị Mỹ L và 01 con.
Tiền án, tiền sự: không;
Bị tạm giữ, tạm giam ngày 29/01/2021, có mặt.
6. Nguyễn Văn H, sinh ngày 29 tháng 7 năm 1981, tại tỉnh Hải Dương; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: tỉnh Hải Dương; Tạm trú: Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hóa: 12/12; Con ông Nguyễn Văn B và bà Nguyễn Thị N; có vợ Phạm Thị H và 02 con.
Tiền án, tiền sự: không;
Bị tạm giữ, tạm giam ngày 31/3/2021, có mặt.
7. Nguyễn Đăng B (B), sinh ngày 05 tháng 12 năm 1981, tại tỉnh Bình Thuận; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: tỉnh Bình Thuận; Tạm trú: tỉnh Bình Dương; Nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hóa: 02/12; con ông Nguyễn Đăng Y (đã chết) và bà Phan Thị C.
Tiền án, tiền sự: không;
Bị cáo hiện đang tại ngoại, có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lê Thị Hồng T, luật sư, Văn phòng luật sư T thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng bào chữa cho bị cáo Nguyễn Ngọc T theo yêu cầu của bị cáo, có mặt.
Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo Nguyễn Gia C, Phan Hồng Đ, H Thị B và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 01 giờ 30 phút ngày 21/12/2020, Tổ công tác Trạm Cảnh sát giao thông Cửa ô H, thuộc phường H Bắc, quận L, thành phố Đà Nẵng kiểm tra xe ô tô biển kiểm soát 17A-xxxxx do Vũ Đức D điều khiển, phát hiện trên xe có 06 người mang quốc tịch Trung Quốc không có hộ chiếu, thị thực gồm: L, L, L, C, W và H. Cả 06 người Trung Quốc này đều khai nhận đã nhập cảnh trái phép.
Tiếp sau đó, vào lúc 15 giờ ngày 12/01/2021, Tổ công tác Trạm Cảnh sát giao thông Cửa ô H thuộc phường H Bắc, quận L, thành phố Đà Nẵng kiểm tra xe ô tô khách giường nằm loại 44 chỗ biển kiểm soát 51B-xxxxx do Nguyễn Đăng B điều khiển, phát hiện trên xe có 05 người mang quốc tịch Trung Quốc không có hộ chiếu, thị thực gồm: Lei Qiang H, Deng Mei J, Hong Long W, Tang Wan Cg và Chen Min Y. Cả 05 người Trung Quốc này đều khai nhận đã nhập cảnh trái phép.
Quá trình điều tra xác định: Thông qua việc đổi tiền trên phần mềm Wechat, H Đình H quen người đàn ông Trung Quốc có tên gọi là A H (không rõ lai lịch). Sau đó A H đã nhiều lần liên lạc với H đặt vấn đề tổ chức đón, đưa những người Trung Quốc nhập cảnh trái phép từ Trung Quốc vào Việt Nam để sang Campuchia làm việc, cụ thể:
- Lần thứ nhất: Ngày 18/12/2020, H nhận đón và đưa 06 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép từ Hà Nội vào Bình Dương với giá 10.500 nhân dân tệ (tương đương 37.000.000 đồng), H đã nhận trước số tiền 20.000.000 đồng.
Ngày 19/12/2020, H liên hệ với Nguyễn Văn N thuê chở 06 người Trung Quốc nói trên từ Hà Nội vào Bình Dương với giá 35.000.000 đồng. Ngày 21/12/2020, H đã chuyển khoản trước cho N 20.000.000 đồng.
Thấy chặng đường từ Hà Nội vào đến Bình Dương dài, lái xe không đủ sức khỏe chạy liên tục nên N chia thành hai chặng đường. Theo đó, N gọi điện cho Nguyễn Gia C thuê chở từ Hà Nội đến cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi và điện thoại cho Nguyễn Văn H (là anh cột chèo của N) từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Đà Nẵng để chở tiếp vào Bình Dương. Qua trao đổi thì C và H đều biết số người Trung Quốc này là nhập cảnh trái phép nhưng vẫn đồng ý chở và thống nhất giá tiền chở là 12.000.000 đồng/chặng.
Do bận việc riêng không thể chạy chuyến này được nên C báo lại cho N là C đã thuê lại Vũ Đức D để chở thay. Qua trao đổi, D biết số người Trung Quốc này là nhập cảnh trái phép nhưng vẫn đồng ý chở và thống nhất giá là 12.000.000 đồng và bồi dưỡng riêng cho D thêm 1.000.000 đồng vì phải vào nội thành Hà Nội đón. Sau đó, D gọi điện thoại cho Trần Anh T (sinh năm 1977, trú: tỉnh Hưng Yên), rủ T đi theo lái phụ cho mình và T biết số người Trung Quốc này là nhập cảnh trái phép. D hứa sẽ trả cho T 1.500.000 đồng sau khi hoàn thành chuyến đi. Ngày 21/12/2020, N chuyển trước cho C số tiền 7.000.000 đồng.
Khoảng 07 giờ ngày 20/12/2020, H nhận được tin nhắn từ A H thông báo 06 người Trung Quốc đã đến khu vực bến xe sân vận động M kèm theo 01 video thể hiện vị trí đứng của 06 người này. Sau đó, H gửi lại tin nhắn, video này cho N và N gửi lại C, sau đó C điện thoại báo cho D biết. Khoảng 11 giờ ngày 20/12/2020, dựa vào vị trí, hình ảnh do C gửi qua Zalo D cùng T lái xe ô tô biển kiểm soát 17A-xxxxx đến bến xe M đón 06 người Trung Quốc. N lúc này đang ở Hà Nội nên đến sân vận động M để nắm tình hình, khi thấy xe của D đến thì N điện thoại cho D hướng dẫn vị trí đứng của 06 người Trung Quốc. Khi thấy 06 người Trung Quốc, D cùng T ra hiệu cho số người này nhanh chóng lên xe và giữ im lặng. Trên đường đi, D đã mua sẵn lương thực cho số người Trung Quốc ăn trên xe để tránh bị phát hiện.
Đồng thời, vào chiều tối ngày 20/12/2020, H cũng điều khiển xe ô tô 07 chỗ biển kiểm soát 51G-376.63 xuất phát từ Thành phố Hồ Chí Minh ra cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi để đón 06 người Trung Quốc chở vào Bình Dương như đã trao đổi. Trên đường đi, H thường xuyên liên lạc, trao đổi với D để thống nhất việc đón trả khách.
Đến 01 giờ 30 phút ngày 21/12/2020, khi xe ô tô của D đến địa phận Đà Nẵng thì bị Tổ công tác Trạm Cảnh sát giao thông Cửa ô H kiểm tra, phát hiện 06 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép như trên.
Khi biết được 06 người Trung Quốc bị Công an thành phố Đà Nẵng kiểm tra, phát hiện. A H đã báo lại cho H biết, H báo lại cho N. Khoảng 03 giờ ngày 21/12/2020, N báo lại cho C và H. Lúc này, H đã ra đến Phú Yên nên N yêu cầu H quay xe lại Thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 03 ngày sau, N thông báo với H lý do không chạy được chuyến này là do bị Công an thành phố Đà Nẵng bắt giữ và xin nợ tiền chạy xe chuyến này.
Vì không đưa được đến Bình Dương theo yêu cầu nên A H không chuyển số tiền còn lại 17.000.000 đồng cho H. Do đó, H cũng chưa chuyển cho N số tiền còn lại. Như vậy, trong chuyến này Nguyễn Gia C đang giữ 7.000.000 đồng, Nguyễn Văn N đang giữ 13.000.000 đồng.
- Lần thứ hai: Ngày 10/01/2021, H nhận đón và đưa 05 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép từ Hà Nội vào Đồng Nai với giá 9.000 nhân dân tệ (tương đương 32.000.000 đồng). A H chuyển trước cho H 20.000.000 đồng và dặn H trong quá trình liên lạc gọi 05 người Trung Quốc này là “05 con gà na na”.
Sau đó, H thuê N chở với giá 30.000.000 đồng, H chuyển khoản trước cho N 20.000.000 đồng. Lúc này, N nói với H chuyến này nên đi bằng xe khách giường nằm loại 44 chỗ để tránh bị phát hiện vì chuyến trước đi xe 07 chỗ đã bị Công an thành phố Đà Nẵng phát hiện thì H đồng ý. Sau đó, H liên lạc với A H hỏi có biết số điện thoại nhà xe khách 44 chỗ nào không, A H gửi cho H số điện thoại của nhà xe là 0909.139.703. H gửi lại số điện thoại nhà xe cho N. N liên lạc thì gặp Lê Văn T. N đặt vấn đề với T chở 05 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép từ Hà Nội vào Đồng Nai, lúc này T đang ở Thành phố Hồ Chí Minh nên không thể chở được, T báo lại với N sẽ tìm người khác chạy thay và thống nhất giá chở là 12.500.000 đồng.
Trước đó vào ngày 08/01/2021, Nguyễn Ngọc T (là anh họ của T) cùng với Nguyễn Đăng B (là lái xe thuê cho T) làm nghề vận tải chuyên chở khách theo tuyến từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội và ngược lại. T trả tiền công lái xe cho B là 3.000.000 đồng/chuyến. Ngày 09/01/2021, T cùng B lái xe chở khách từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội như thường lệ.
Biết T vừa chở xong chuyến xe từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội vào ngày hôm trước và đang nghỉ trọ tại Hà Nội nên khoảng 12 giờ ngày 10/01/2021, T liên lạc với T nhờ chở 05 người Trung Quốc từ Hà Nội vào Thành phố Hồ Chí Minh. Qua trao đổi, T biết 05 người Trung Quốc này là nhập cảnh trái phép nhưng do xe vắng khách vì dịch bệnh nên T đồng ý chở. T báo giá là 7.500.000 đồng và hẹn đón khách tại bãi xe C. Đồng thời, T liên lạc cho chủ bãi xe C là H Thị B nhờ B đón 05 người Trung Quốc tại bãi xe C và giao cho T. Qua trao đổi, B cũng biết 05 người Trung Quốc này nhập cảnh trái phép nhưng vẫn đồng ý đón.
Sau đó, N liên lạc với C nhờ đón 05 người Trung Quốc tại khu vực cầu Thanh Trì rồi thuê phòng khách sạn cho 02 người Trung Quốc nghỉ ngơi. N đưa số điện thoại của T cho C để khi chở khách đến bãi xe C thì liên lạc giao người. Đồng thời, N đưa cho C số điện thoại của lái xe chở 05 người Trung Quốc đến Hà Nội để C liên lạc đón (số điện thoại này do A H đưa cho H và H đưa cho N). N dặn C trong quá trình liên lạc thì gọi 05 người Trung Quốc này là “05 con gà na na”. N chuyển cho C 18.500.000 đồng, trong đó có 12.500.000 đồng là tiền đưa cho T, 6.000.000 đồng còn lại C trả tiền khách sạn và tiền công của C.
Sau đó, C liên lạc với bạn của mình là Phan Hồng Đ nhờ Đ đón khách từ cầu Thanh Trì đến khách sạn tại khu vực quận H Mai mà C đã đặt phòng trước đó. Khoảng 23 giờ ngày 10/01/2021, C đưa cho Đ xe ô tô 04 chỗ biển kiểm soát 89A - xxxxx và 01 điện thoại di động Nokia đen trắng có gắn sim số 0865.4xxxxx, trong điện thoại có lưu sẵn số của lái xe chở 05 người Trung Quốc đến Hà Nội để Đ liên lạc đón. Sau khi đón được, Đ chở 05 người Trung Quốc đến khách sạn và được C trả công cho Đ 2.000.000 đồng Khoảng 18 giờ ngày 11/01/2021, T cùng B điều khiển xe ô tô khách biển kiểm soát 51B-xxxxx xuất phát từ bến xe N đến bãi xe C của B để xếp hàng hóa lên xe và đợi đón 05 người Trung Quốc. Khoảng 20 giờ ngày 11/01/2021, Nguyễn Gia C lái xe ô tô 04 chỗ biển kiểm soát 89A-xxxxx đến khách sạn đón 05 người Trung Quốc chở đến bãi xe C. Đến nơi, C liên lạc với T nói ra nhận khách. T điện thoại cho B nói ra mở cổng cho xe của C vào. C đưa cho B 12.500.000 đồng và dặn B trong quá trình liên lạc thì gọi 05 người Trung Quốc là “05 con gà na na”. Sau khi nhận khách từ C, B giao lại cho T và đưa cho T 7.500.000 đồng, đồng thời dặn T trong khi liên lạc thì gọi 05 người Trung Quốc là “05 con gà na na”. Quá trình trao đổi giữa B và T, B nghe và biết việc chở khách Trung Quốc nhập cảnh trái phép của T, B nói với T “chở gì rẻ vậy”, T trả lời “không có tiền nên chở chứ lấy tiền đâu mà về”. Sau đó, T và B thay nhau lái xe.
Vào lúc 15 giờ ngày 12/01/2021, khi xe của T đến Đà Nẵng thì bị Tổ công tác Trạm Cảnh sát giao thông Cửa ô H dừng xe kiểm tra phát hiện 05 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép như trên.
Vì số người Trung Quốc này chưa đến được Đồng Nai như yêu cầu nên A H không chuyển số tiền còn lại 12.000.000 đồng cho H. Do đó, H cũng chưa chuyển số tiền còn lại cho N. Như vậy, trong lần này Nguyễn Văn N thu lợi 1.500.000 đồng, Nguyễn Gia C thu lợi 2.000.000 đồng, Phan Hồng Đ thu lợi 2.000.000 đồng, H Thị B thu lợi 5.000.000 đồng, Nguyễn Ngọc T thu lợi 7.500.000 đồng (trong đó Nguyễn Đăng B giúp sức cho Nguyễn Ngọc T thu lợi bất chính 7.500.000 đồng) và tiền thuê khách sạn là 2.000.000 đồng.
Ngoài hai lần nêu trên, mở rộng điều tra xác định trước đó cũng thông qua A H, H Đình H cùng các đồng phạm đã nhiều lần nhận chở người Trung Quốc nhập cảnh trái phép đi từ Hà Nội vào các tỉnh phía Nam 04 lần và ngược lại 01 lần đi từ Bình Dương ra Hà Nội, cụ thể:
- Lần 1: Ngày 18/11/2020, H nhận đón 05 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép để chở từ Hà Nội vào miền Nam với giá 9.000 nhân dân tệ (32.000.000 đồng). Sau đó, H liên lạc với một người tên Sơn (không rõ lai lịch) nhờ chở 05 khách Trung Quốc trên từ Hà Nội vào miền Nam với giá 30.000.000 đồng. Sơn liên lạc với C nhờ đón và chở vào Bình Dương với giá 21.000.000 đồng. Sau đó, C liên hệ với D cùng chạy chuyến này. C cùng D sử dụng xe ô tô biển kiểm soát 17A-xxxxx chở 05 người Trung Quốc từ Hà Nội vào Bình Dương. Chuyến này, C chuyển vào tài khoản Ngân hàng của vợ D số tiền 9.000.000 đồng.
Như vậy, trong chuyến đi này H Đình H thu lợi 2.000.000 đồng, Sơn thu lợi 9.000.000 đồng, Vũ Đức D thu lợi 9.000.000 đồng, chi phí xăng dầu, phí BOT, ăn uống (sau đây gọi là chi phí trên xe) hết 5.000.000 đồng, Nguyễn Gia C thu lợi 7.000.000 đồng.
- Lần 2: Ngày 23/11/2020, H nhận đón 06 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép để chở từ Hà Nội và miền Nam với giá 10.500 nhân dân tệ (37.000.000 đồng). Sau đó, H liên lạc với N và N đồng ý chở với giá là 35.000.000 đồng. N liên lạc với C nhờ đón và chở vào Bình Dương với giá chở 06 người Trung Quốc là 25.000.000 đồng. C liên hệ với D cùng chạy chuyến này. C cùng D sử dụng xe ô tô biển kiểm soát 17A-xxxxx chở 06 người Trung Quốc từ Hà Nội vào Bình Dương. Chuyến này, C chuyển vào tài khoản Ngân hàng của con gái D 8.000.000 đồng và đưa cho D 2.000.000 đồng tiền mặt. Như vậy, trong chuyến này H Đình H thu lợi 2.000.000 đồng, Nguyễn Văn N thu lợi 10.000.000 đồng, Vũ Đức D thu lợi 10.000.000 đồng, chi phí trên xe hết 5.000.000 đồng, Nguyễn Gia C thu lợi 10.000.000 đồng.
- Lần 3: Ngày 28/11/2020, H nhận đón 04 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép tại một địa chỉ tại Hà Nội và tìm xe đưa số người này vào miền Nam với giá chở là 7.500 nhân dân tệ (27.000.000 đồng). Sau đó, H liên lạc với N thuê N chở với giá là 25.000.000 đồng. N thuê lại C với giá là 20.000.000 đồng. Trao đổi xong, C liên hệ với D cùng chạy chuyến này. C cùng D sử dụng xe ô tô biển kiểm soát 17A-xxxxx chở 04 người Trung Quốc từ Hà Nội vào Bình Dương và C đã trả cho D số tiền 8.000.000 đồng. Như vậy, trong chuyến này H Đình H thu lợi 2.000.000 đồng, Nguyễn Văn N thu lợi 5.000.000 đồng, Vũ Đức D thu lợi 8.000.000 đồng, chi phí xăng dầu, phí BOT, chi phí trên xe hết 5.000.000 đồng, Nguyễn Gia C thu lợi 7.000.000 đồng.
- Lần 4: Ngày 30/11/2020, H nhận đón 03 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép tại một địa chỉ tại Hà Nội và tìm xe đưa số người này vào miền Nam với giá chở là 6.200 nhân dân tệ (22.000.000 đồng). Sau đó, H liên hệ thuê N chở với giá là 20.000.000 đồng. N thuê lại C với giá là 18.000.000 đồng. Lúc này, C đang ở Bình Dương cùng D để trả 04 người Trung Quốc trong chuyến ngày 28/11/2020, vì vậy C liên hệ với Phan Hồng Đ thuê Đ lái xe ô tô 04 chỗ biển kiểm soát 89A- xxxxx của C đón 03 người Trung Quốc tại Hà Nội rồi chạy vào Nam, còn C thì chạy từ Bình Dương ra Bắc cùng D. Sau khi 02 xe gặp nhau tại Đà Nẵng, C cùng Đ tiếp tục sử dụng xe ô tô 89A-xxxxx để chở khách vào Nam. Xong chuyến này, C trả cho Đ 5.000.000 đồng. Như vậy, trong chuyến này H Đình H thu lợi 2.000.000 đồng, Nguyễn Văn N thu lợi 2.000.000 đồng, Phan Hồng Đ thu lợi 5.000.000 đồng, chi phí trên xe hết 5.000.000 đồng, tiền khách sạn nghỉ tại Bình Thuận hết 2.000.000 đồng, Nguyễn Gia C thu lợi 6.000.000 đồng.
- Lần 5: Khoảng ngày 04/12/2020, H nhận đón 05 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép tại một địa chỉ Bình Dương và tìm xe đưa số khách này ra Hà Nội với giá chở là 9.000 nhân dân tệ (32.000.000 đồng).
Sau đó, H liên hệ thuê N chở với giá là 30.000.000 đồng. N thuê H đón và chở từ Bình Dương ra Hà Nội. Do sức khỏe không đảm bảo để chạy đến Hà Nội nên H chỉ nhận chở nửa quãng đường từ Bình Dương đến Đà Nẵng. Vì vậy, N tiếp tục liên hệ với C thuê C chở từ Đà Nẵng ra Hà Nội. Do lúc này C có việc riêng nên báo lại với N sẽ tìm người khác thay thế, C liên lạc với D thuê chạy chuyến này, D đồng ý và rủ Trần Anh T làm phụ lái.
Chiều tối ngày 04/12/2020, H sử dụng xe ô tô 07 chỗ biển kiểm soát 51G- 376.63 đón 05 người Trung Quốc tại Bình Dương và chở ra phía Bắc. Cùng lúc đó, D và T sử dụng xe ô tô 07 chỗ biển kiểm soát 17A-xxxxx xuất phát từ Hưng Yên vào miền Nam. Đến khoảng 18 giờ ngày 05/12/2020, hai xe gặp nhau tại đường dẫn vào cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi thuộc địa phận tỉnh Quảng Ngãi và tiến hành giao nhận khách, sau đó D cùng T tiếp tục chở ra Hà Nội. Xong chuyến đi này, N chuyển cho H 12.000.000 đồng và C 12.000.000 đồng. C chuyển lại do D 10.500.000 đồng (trong đó đưa tiền mặt cho D 6.500.000 đồng, chuyển vào tài khoản T 4.000.000 đồng). D trả cho T 2.000.000 đồng.
Như vậy, trong chuyến đi này H Đình H hưởng lợi 2.000.000 đồng, Nguyễn Văn N hưởng lợi 6.000.000 đồng, Nguyễn Văn H hưởng lợi 12.000.000 đồng, Nguyễn Gia C hưởng lợi 1.500.000 đồng, Trần Anh T hưởng lợi 2.000.000 đồng, chi phí trên xe của D hết 4.000.000 đồng, Vũ Đức D hưởng lợi 4.500.000 đồng.
Riêng Lê Văn T, quá trình điều tra xác định T còn 02 lần chở 05 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép. Cụ thể:
Lần 1: Ngày 02/7/2020, khi xe của Lê Văn T đang đậu tại bến xe N (Hà Nội) thì có 01 người đàn ông (không rõ lai lịch) đến đặt vấn đề với T về việc chở 02 người Trung Quốc không có giấy tờ nhập cảnh trái phép vào ngã tư Bình Phước, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 900.000 đồng/người. T đồng ý chở. Sau đó T sử dụng xe ô tô khách loại 44 chỗ BKS 51B-xxxxx chở 02 người Trung Quốc trên đến ngã tư Bình Phước theo yêu cầu. Đến nơi, T liên hệ vào số điện thoại của một lái xe do người đàn ông trên cung cấp để giao khách. Sau khi nhận khách xong, người lái xe này trả cho T 1.800.000 đồng.
- Lần 2: Ngày 29/11/2020, một người đàn ông nêu trên tiếp tục điện thoại cho Lê Văn T để chở 03 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép như lần trước vào ngã tư Bình Phước, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 900.000 đồng/người. T đồng ý chở. Sau đó T sử dụng xe ô tô khách loại 44 chỗ biển kiểm soát 51B-xxxxx chở 03 người Trung Quốc trên đến ngã tư Bình Phước theo yêu cầu. Đến nơi, T liên hệ vào số điện thoại của một lái xe do người đàn ông trên cung cấp để giao khách. Sau khi nhận khách xong, người lái xe này trả cho T 2.700.000 đồng.
Tại Bản án sơ thẩm số 30/2022/HS-ST ngày 06/5/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đ quyết định:
1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo H Đình H, Nguyễn Văn N, Vũ Đức D, Nguyễn Văn H, Lê Văn T, Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Đăng B phạm tội “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép”.
2. Về hình phạt:
2.1. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 348; điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm b, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo H Đình H 11 (mười một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/01/2021.
2.2. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 348; điểm t, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm b, g, h khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 56 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn N 11 (mười một) năm 06 (sáu) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 12 (mười hai) tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2020/HS-ST ngày 23/9/2020 cua Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình về tội "Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài trái phép”. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/01/2021.
2.3. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 348; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm b, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Vũ Đức D 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/01/2021.
2.4. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 348; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/3/2021.
2.5. Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 348; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Lê Văn T 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/01/2021.
2.6. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 348; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T 05 (năm) 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/01/2021.
2.7. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 348; điểm t, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đăng B 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Gia C, Phan Hồng Đ, H Thị B, phần hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 07/5/2022, bị cáo Lê Văn T có đơn kháng cáo; ngày 10/5/2022, bị cáo Nguyễn Văn N có đơn kháng cáo; ngày 13/5/2022, bị cáo Nguyễn Đăng B có đơn kháng cáo; ngày 14/5/2022, bị cáo Nguyễn Ngọc T có đơn kháng cáo; ngày 15/5/2022, bị cáo Vũ Đức D có đơn kháng cáo; ngày 17/5/2022, bị cáo Nguyễn Văn H có đơn kháng cáo; ngày 20/5/2022, bị cáo H Đình H có đơn kháng cáo đều cùng nội dung xin giảm nhẹ hình phạt, riêng bị cáo Nguyễn Đăng B còn xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo H Đình H, Nguyễn Văn N, Vũ Đức D, Nguyễn Ngọc T, Lê Văn T, Nguyễn Văn H, Nguyễn Đăng B giữ nguyên yêu cầu kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xử mức án nặng, xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo Nguyễn Đăng B còn xin được hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo H Đình H, Nguyễn Văn N, Vũ Đức D, Nguyễn Ngọc T, Lê Văn T, Nguyễn Đăng B và giữ nguyên bản án sơ thẩm; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H, giảm cho bị cáo một phần hình phạt.
Lời bào chữa của luật sư cho bị cáo Nguyễn Ngọc T nhất trí về phần tội danh và khung hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng để xét xử đối với bị cáo Nguyễn Ngọc T. Luật sư cho rằng, bị cáo T chỉ chở 05 người Trung Quốc, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo T bị bệnh. Mặc dầu tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, nhưng xét mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo T là quá nghiêm khắc nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo T một phần hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án; Căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
1. Các bị cáo H Đình H, Nguyễn Văn N, Vũ Đức D, Lê Văn T, Nguyễn Văn H, Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Đăng B khai nhận tội, đối chiếu thấy phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 02/7/2020 đến ngày 12/01/2021, thông qua một người Trung Quốc có tên A H (không rõ lai lịch), H Đình H đã cấu kết với Nguyễn Văn N, Nguyễn Gia C, Vũ Đức D, Nguyễn Ngọc T, Lê Văn T, Phan Hồng Đ, H Thị B, Nguyễn Văn H, Nguyễn Đăng B nhiều lần tổ chức cho nhiều người có quốc tịch Trung Quốc nhập cảnh trái phép để thu lợi bất chính. Trong đó, H Đình H là người trực tiếp liên lạc với A H để tổ chức 7 lần cho 34 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào Việt Nam thu lợi 10.000.000 đồng; đồng thời cấu kết với các bị cáo khác dưới hình thức thuê chở sâu vào nội địa Việt Nam và những bị cáo này biết rõ các đối tượng là người Trung Quốc nhập cảnh trái phép nhưng vì động cơ vụ lợi nên vẫn nhận thực hiện, cụ thể: Nguyễn Văn N tham gia 6 lần chở 29 người, thu lợi 37.500.000 đồng; Vũ Đức D tham gia 5 lần chở 26 người, thu lợi 31.500.000 đồng; Lê Văn T tham gia 3 lần chở 10 người, thu lợi 4.500.000 đồng; Nguyễn Văn H tham gia 2 lần chở 11 người, thu lợi 12.000.000 đồng; Nguyễn Ngọc T tham gia 1 lần chở 5 người, thu lợi 7.500.000 đồng;
Nguyễn Đăng B tham gia 1 lần chở 5 người để Nguyễn Ngọc T thu lợi 7.500.000 đồng.
Hành vi nêu trên của các bị cáo H Đình H, Nguyễn Văn N, Vũ Đức D, Lê Văn T, Nguyễn Văn H, Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Đăng B đã bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử về tội “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép”; Các bị cáo H Đình H, Nguyễn Văn N, Vũ Đức D, Nguyễn Văn H theo điểm a khoản 3 Điều 348 Bộ luật hình sự; Lê Văn T theo điểm b, c khoản 2 Điều 348 Bộ luật hình sự; Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Đăng B theo điểm c khoản 2 Điều 348 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Bản án sơ thẩm đánh giá đúng tính chất nghiêm trọng của vụ án, mức độ phạm tội, đồng thời xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo và xử phạt các bị cáo: H Đình H 11 năm 6 tháng tù, Nguyễn Văn N 11 năm 6 tháng tù, Vũ Đức D 09 năm tù, Nguyễn Văn H 08 năm tù, Lê Văn T 07 năm tù, Nguyễn Ngọc T 05 năm 6 tháng tù, Nguyễn Đăng B 03 năm tù. Mức hình phạt trên là không nặng, tương xứng với hành vi và hậu quả do các bị cáo gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo H Đình H, Nguyễn Văn N, Vũ Đức D, Lê Văn T, Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Đăng B cũng như lời bào chữa của luật sư cho bị cáo Nguyễn Ngọc T và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đối với bị cáo Nguyễn Văn H sau khi xử sơ thẩm đã tác động với gia đình nộp tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng số tiền thu lợi bất chính 12.000.000 đồng tại biên lai thu tiền số 0001824 ngày 27/7/2022. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới nên có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H giảm cho bị cáo một phần hình phạt.
2. Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo H Đình H, Nguyễn Văn N, Vũ Đức D, Lê Văn T, Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Đăng B phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Đối với bị cáo Nguyễn Văn H do yêu cầu kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Những phần quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên không xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355, Điều 356, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.
1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo H Đình H, Nguyễn Văn N, Vũ Đức D, Lê Văn T, Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Đăng B và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H và sửa bản án sơ thẩm. Tuyên bố: Các bị cáo H Đình H, Nguyễn Văn N, Vũ Đức D, Nguyễn Văn H, Lê Văn T, Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Đăng B phạm tội “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép”.
Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 348, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm b, g khoản 1 Điêu 52 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: H Đình H 11 (Mười một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/01/2021.
Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 348, điểm t, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm b, g, h khoản 1 Điều 52, khoản 2 Điều 56 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Nguyễn Văn N 11 (mười một) năm 06 (sáu) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 12 (mười hai) tháng tù về tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài trái phép” của bản án hình sự sơ thẩm số 37/2020/HS-ST ngày 23/9//2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình. Hình phạt chung của 2 bản án buộc Nguyễn Văn N phải chấp hành là 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/01/2021.
Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 348, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm b, g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Vũ Đức D 09 (chín) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/01/2021.
Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 348, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Nguyễn Văn H 07 (bảy) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/3/2021.
Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 348, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Lê Văn T 07 (bảy) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/01/2021.
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 348, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt Nguyễn Ngọc T 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/01/2021.
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 348, điểm t, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự.s Xử phạt: Nguyễn Đăng B 03 (ba) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về án phí: H Đình H, Nguyễn Văn N, Vũ Đức D, Lê Văn T, Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Đăng B mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm. Nguyễn Văn H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm về phần tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Gia C, Phan Hồng Đ, H Thị B, phần hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 271/2022/HS-PT về tội tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép
Số hiệu: | 271/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/07/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về