Bản án 270/2019/HNGĐ-ST ngày 28/02/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 270/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 28 tháng 02 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1277/2018/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 7 năm 2018 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2019/QĐXX-ST ngày 04 tháng 01 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2019/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 02 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông H.

Địa chỉ: Đường X, Phường Y, Quận Z, Thành ph Hồ Chí Minh (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Bà A.

Địa chỉ: Đường X, Phường Y, Quận Z, Thành ph Hồ Chí Minh (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn ngày 22 tháng 6 năm 2018, bản khai và các biên bản lập tại Tòa án, nguyên đơn ông H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông H và bà A quen biết nhau do tự nguyện và tìm hiểu nhau được 06 tháng, có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn số 55, quyển số 01.2008 ngày 06/5/2008 tại Ủy ban nhân dân Phường 02, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với cha mẹ chồng tại số nhà D, đường Cô Giang, Phường 02, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh, bà A được nhập hộ khẩu tại đây. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Bà A làm công nhân may xuất nhập khẩu, còn ông H làm chủ đại lý nước đá tư nhân.

Vợ chồng chung sống có 02 con chung là trẻ Nguyễn P (nữ) (sinh ngày 09/3/2008) và trẻ Nguyễn T (nam) (sinh ngày 22/02/2010).

Năm 2012 vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung trong cuộc sống vì bà A thường xuyên không chăm sóc con cái, đi sớm về khuya. Cha mẹ chồng và ông H có khuyên bà A lo cho chồng con nhưng bà A không thay đổi. Quá trình chung sống, vợ chồng có bất đồng quan điểm với nhau nhưng không có nhờ chính quyền địa phương hòa giải vì là mâu thuẫn nội bộ gia đình.

Đến tháng 8/2013 bà A không sống chung với ông H nữa và tự ý thuê nhà ra sống riêng mà không cho ông H biết địa chỉ nơi ở nên vợ chồng đã ly thân từ tháng 8/2013 cho đến nay. Việc bà A tự ý bỏ nhà ra sống riêng, ông H có báo với cha mẹ bà A biết nhưng họ không có ý kiến.

Đến tháng 5/2017 mẹ ruột bà A có yêu cầu ông H đưa sổ hộ khẩu gia đình ông H ở số D, đường Cô Giang, Phường 2, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh để bà A cắt hộ khẩu của bà A từ quận Phú Nhuận nhập về hộ khẩu và sinh sống tại số G, Đường Đinh Tiên Hoàng, Phường 01, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.

Nay ông H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không thể hàn gắn đoàn tụ được nên ông H yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với bà A để rõ ràng về pháp lý.

Về con chung: Ông H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc hai trẻ P và trẻ T. Ông H không yêu cầu bà A cấp dưỡng nuôi con vì hiện nay thu nhập của ông H khoảng 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng)/tháng nên ông H đủ khả năng để lo cho hai con.

Về tài sản chung: Ông H xác định vợ chồng sẽ tự thỏa thuận về tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Ông H xác định vợ chồng không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh - Bà Phan Hoàng Anh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật như sau:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ kiện và tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Tuy nhiên có vi phạm về thời hạn giải quyết vụ việc. Nguyên đơn chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự; bị đơn đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn được đảm bảo.

- Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về pháp luật tố tụng:

Ngày 23/8/2018 Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh có nhận công văn đến lập ngày 07/8/2018 của bà A về việc bà A đề nghị xét xử vắng mặt và xin vắng mặt trong các buổi làm việc tại Tòa án (Đơn đề nghị nêu trên có xác nhận chữ ký của bà A tại Ủy ban nhân dân Phường 01, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh).

Do bà A chưa có bản khai trình bày ý kiến của bà A gửi đến Tòa án về việc ông H yêu cầu ly hôn với bà A, về con chung, về tài sản chung và nợ chung. Tòa án đã tiến hành xác minh thu thập chứng cứ nơi cư trú của bị đơn như sau:

“Theo kết quả cung cấp chứng cứ của Công an Phường 01, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh ngày 09/11/2018 như sau: “Đ/s A, sinh năm 1981 trước đây có hộ khẩu thường trú tại số D, đường Cô Giang, Phường 02, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Từ ngày 26/5/2017 đăng ký hộ khẩu thường trú tại G, Đinh Tiên Hoàng, Phường 01, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh đến nay, hiện nay không có mặt tại địa phương”. Do đó để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bà A, Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh đã thực hiện việc tống đạt và niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng cho bà A tại địa chỉ nêu trên là đúng quy định.

Do bà A có đơn đề nghị xét xử vắng mắt, ông H đã có bản khai tại Tòa và cũng có đơn xét xử vắng mặt ngày 11/12/2018 nên căn cứ Điểm a, Điểm b Khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

- Quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn ông H và bị đơn bà A chung sống trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, đây là hôn nhân hợp pháp. Nguyên đơn xin ly hôn với bị đơn, bị đơn có đăng ký thường trú tại quận Bình Thạnh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về pháp luật nội dung:

- Xét yêu cầu của ông H xin ly hôn với bà A:

Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa ông H và bà A là do vợ chồng không hòa hợp tính tình, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không chia sẻ quan tâm đến nhau trong cuộc sống.

Xét thấy cuộc sống chung giữa ông H và bà A không còn hạnh phúc, vợ chồng đã ly thân với nhau từ giữa năm 2013 cho đến nay, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, có duy trì hôn nhân cũng chỉ là hình thức. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông H được ly hôn với bà A.

- Xét yêu cầu của ông H về yêu cầu được nuôi hai con và ông H không yêu cầu bà A cấp dưỡng nuôi con:

Hiện nay ông H làm việc tự do, thu nhập khoảng 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng)/tháng, ông H tự nguyện cũng không yêu cầu bà A cấp dưỡng nuôi con và theo Bản ghi nhận ý kiến về nguyện vọng của trẻ P và trẻ Nguyễn H tại Tòa án thì hai con có nguyện vọng được ở với ông H. Do đó yêu cầu được nuôi hai con của ông H là chính đáng, phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nêu trên của ông H.

Về tài sản chung: Ông H xác định vợ chồng sẽ tự thỏa thuận về tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nợ chung: Ông H xác định vợ chồng không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình: 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), ông H chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điểm a, Điểm b Khoản 2 Điều 227, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 19, Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của ông H.

Ông H được ly hôn với bà A (Giấy chứng nhận kết hôn số D, quyển số 01.2008 ngày 06/5/2008 do Ủy ban nhân dân Phường 02, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh cấp không còn giá trị pháp lý).

2. Về con chung: Giao hai trẻ Nguyễn P (nữ) (sinh ngày 09/3/2008) và Nguyễn H (nam) (sinh ngày 22/02/2010) cho ông H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng. Ông H tự nguyện không yêu cầu bà A cấp dưỡng nuôi con.

Bà A có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, khi cần thiết có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Ông H xác định vợ chồng sẽ tự thỏa thuận về tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về nợ chung: Ông H xác định vợ chồng không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình: 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) ông H chịu, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông H đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0004940 ngày 04/7/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông H đã nộp đủ án phí.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án theo quy định của pháp luật.

Các quyền và nghĩa vụ thi hành án dân sự của các đương sự được thực hiện tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 270/2019/HNGĐ-ST ngày 28/02/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:270/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;