TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 269/2021/HSST NGÀY 17/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Hôm nay, ngày 17 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP. Biên Hòa mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 232/2021/HSST ngày 19 tháng 4 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 223/2021/QĐXXST-HS ngày 29/4/2021, đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Chánh B; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm 1996, tại Đồng Nai; Nơi cư trú: 18/87, khu phố 12, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Trần Đức P, không rõ năm sinh (Đã chết) và bà Ngô Thị X, sinh năm 1965. Gia đình có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ năm. Bị cáo chung sống với chị Bùi Thị Ngọc T, sinh năm 2002, có 01 con chung sinh năm 2019.
Tiền án: Ngày 11/3/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong bản án vào ngày 16/6/2020.
Tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 29/11/2012, bị Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng với thời gian là 24 tháng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong vào ngày 30/9/2014.
Bị tạm giữ từ ngày 24/12/2020, chuyển tạm giam theo Lệnh số 84/LTG ngày 31/12/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa.
Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố Biên Hòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Chánh B là người sử dụng trái phép chất ma túy. Vào khoảng 13 giờ ngày 24/12/2020, Ban đi đến khu vực “Công viên 30-4” phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai mua của người đàn ông tên N (không rõ lai lịch) 01 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng). Sau đó, B đem số ma túy trên về nhà của B tại 18/87, khu phố 12, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, chia thành 04 (bốn) gói và cất giấu để lúc khác sử dụng.
Đến khoảng 13 giờ 40 phút cùng ngày, B cầm 03 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) ở tay trái và đi đến đoạn đường thuộc tổ 47, khu phố 7, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai thì bị Công an phường H kiểm tra phát hiện bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và thu giữ 03 gói ma túy trên.
Khoảng 14 giờ 20 phút cùng ngày, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố B phối hợp với Công an phường H khám xét nhà của B tại địa chỉ nêu trên, phát hiện thu giữ 01 (một) gói ma túy tổng hợp (hàng đá) còn lại của B cất giấu dưới gầm bàn đá đặt trước hiên nhà.
Quá trình điều tra, Trần Chánh B khai nhận hành vi phạm tội như trên.
* Vật chứng:
- 01 gói nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng (niêm phong gửi giám định, ký hiệu M1).
- 03 gói nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng (niêm phong gửi giám định, ký hiệu M2).
* Tại kết luận giám định số 2972/KLGĐ-PC09 ngày 30/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận:
- Mẫu tinh thể màu trắng (ký hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,7397 gam, loại: Methamphetamine.
- Mẫu tinh thể màu trắng (ký hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,6690 gam, loại: Methamphetamine.
Tại bản cáo trạng số 250/CT/VKSBH ngày 12/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân TP. Biên Hòa đã truy tố bị cáo Trần Chánh B về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên Tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Chánh B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo với mức án từ 01 (Hai) năm 02 (Hai) tháng tù đến 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không nộp thêm tài liệu chứng cứ nào khác và đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP. Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và thừa nhận cáo trạng truy tố bị cáo là đúng sự thật, đúng người, đúng tội, bị cáo không có ý kiến gì đối với Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai nhận của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang (Bút lục số 01-02); Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu (bút lục số 03, 09); Kết luận giám định (Bút lục số 13); Lời khai bị can (Bút lục số 46-53); Lời khai của người chứng kiến (Bút lục số 54). Như vậy, đã có đủ cơ sở xác định: Vào ngày 24/12/2020, tại phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, Trần Chánh B có hành vi tàng trữ trái phép 1,4087 gam Methamphetamine thì bị Công an phường H phát hiện bắt quả tang. Hội đồng xét xử đủ căn cứ kết luận bị cáo Trần Chánh B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, góp phần làm gia tăng tệ nạn xã hội, ảnh hưởng xấu đến đời sống cộng đồng. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng với thời gian là 24 tháng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, có 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục phạm tội. Do đó, cần xử bị cáo mức án nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 11/3/2019, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong bản án vào ngày 16/6/2020, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên cần xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước.
[5]. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định.
[6] Đối với người đàn ông tên N (chưa rõ lai lịch) đã bán ma túy cho B: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[8]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tuyên bố bị cáo Trần Chánh B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Trần Chánh B 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/12/2020.
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định tại gói niêm phong số 2972/KLGĐ-PC09 ngày 30/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/4/2021 Của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Biên Hòa).
3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Trần Chánh B phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo Trần Chánh B được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 269/2021/HSST ngày 17/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 269/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về