Bản án 265/2020/DS-PT ngày 02/12/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 265/2020/DS-PT NGÀY 02/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 318/2020/TLPT-DS ngày 27 tháng 10 năm 2020 về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 150/2020/DS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 284/2020/QĐ-PT ngày 05 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Dương Hồng X, sinh năm 1969 (Có mặt):

Địa chỉ: Nhà k, hẻm 420, đường L, khóm 6, phường 1, thị x, tỉnh S ..

- Bị đơn: Ông Nguyễn Thái D, sinh năm 1963 (Có mặt):

Địa chỉ: Số 382, đường L, khóm 5, phường 6, thành phố C, tỉnh C.

- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Thái D, là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Bà Dương Hồng X trình bày:

Ngày 03/5/2009, bà có cho ông Nguyễn Thái D mượn 02 (hai) lượng vàng 24kara, thời hạn trả thỏa thuận là 10 năm. Việc mượn vàng ông D có viết biên nhận ngày 03/5/2009. Đến nay đã hơn 10 năm nhưng ông D chưa trả số vàng đã mượn cho bà. Nay bà yêu cầu ông D trả cho bà 02 (hai) lượng vàng 24kara.

- Đối với ông Nguyễn Thái D: Ông D đã được Tòa án cấp sơ thẩm tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của bà X, nhưng ông D không gửi cho Tòa án văn bản thể hiện ý kiến của ông đối với yêu cầu khởi kiện của bà X.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số:150/2020/DS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Dương Hồng X. Buộc ông Nguyễn Thái D trả cho bà Dương Hồng X 02 (hai) lượng vàng 24kara.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

 Ngày 07/10/2020, ông Nguyễn Thái D có đơn kháng cáo, yêu cầu cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm. Lý do: Khi Tòa án cấp sơ thẩm triệu tập xét xử, có yêu cầu dời ngày xét xử do ông chuyển viện điều trị tại Bệnh viện Cần Thơ nhưng vẫn xử vắng mặt ông; ông không có mượn của bà X 02 lượng vàng 24K, việc ông viết biên nhận mượn bà X 02 lượng vàng 24K là do bà X và bà Hiền ép buộc ông viết biên nhận.

Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Thái D giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

 Phần tranh luận tại phiên toà:

Ông D phát biểu: Ông không có mượn của bà X 02 lượng vàng 24K, việc ông viết biên nhận mượn của bà X 02 lượng vàng 24K là do bị bà X và bà Hiền ép buộc. Nếu Tòa không chấp nhận kháng cáo của ông thì ông cũng đồng ý trả cho bà X 02 lượng vàng 24K.

Bà X không có ý kiến tranh luận.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Thái D, giữ nguyên bản án sơ thẩm .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Xét kháng cáo của ông Nguyễn Thái D, Hội đồng xét xử XÉT THẤY

[1] Bà Dương Hồng X cho rằng ngày 03/5/2009, bà X có cho ông D mượn 02 (hai) lượng vàng 24K, thời hạn trả thỏa thuận là 10 năm. Đến nay đã hơn 10 năm nhưng ông D chưa trả số vàng đã mượn, nên bà X yêu cầu ông D trả cho bà X 02 (hai) lượng vàng 24K. Quá trình giải quyết vụ án, bà X có cung cấp giấy biên nhận nợ do ông D tự viết vào ngày 03/5/2009 để chứng minh việc ông D mượn của bà X 02 lượng vàng 24K. Biên nhận có nội dung: “Tôi: Nguyễn Thái D có mượn Dương Hồng X 2 cây vàng 24 kara (hai cây). Trong vòng mười năm (mười) tôi thanh toán dứt điểm cho Hồng X”, có ký và ghi tên Nguyễn Thái D.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông D thừa nhận biên nhận ngày 03/5/2009 do bà X cung cấp là do chính ông viết và ký tên, nhưng ông D cho rằng việc ông D viết biên nhận là do bị bà X và bà Hiền ép buộc, bà Hiền xác định việc ông D viết biên nhận là hoàn toàn tự nguyện, không có việc ép buộc như ông D trình bày, ông D không có chứng cứ chứng minh việc ông D viết biên nhận là do bị ép buộc. Do đó, cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà X, buộc ông D trả cho bà X 02 lượng vàng 24K là có căn cứ.

[3] Đối với phần nội dung kháng cáo của ông D về việc cấp sơ thẩm xét xử vắng mặt ông D, thấy rằng: Ngày 27/7/2020, Tòa án cấp sơ thẩm đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Giấy triệu tập ông D để tham gia phiên tòa vào lúc 7 giờ 30 phút ngày 20/8/2020; nhưng ngày 20/8/2020 bà X và ông D đều vắng mặt nên Tòa án cấp sơ thẩm hoãn phiên tòa và ấn định thời gian mở lại phiên tòa vào lúc 13 giờ 30 phút ngày 09/9/2020. Đến ngày 09/9/2020, ông D có đơn xin vắng mặt, yêu cầu bố trí lại ngày khác, lý do ông D có giấy chuyển viện điều trị tại Bệnh viện Cần Thơ; Cấp sơ thẩm đã hoãn phiên tòa và ấn định lại thời gian mở phiên tòa vào lúc 13 giờ 30 phút ngày 17/9/2020. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông D cũng thừa nhận ông D có nhận đầy đủ giấy triệu tập của Tòa án cấp sơ thẩm triệu tập để tham gia phiên tòa. Đến ngày 17/9/2020, ông D tiếp tục vắng mặt nhưng không có lý do, nên Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vắng mặt đối với ông D là đúng theo quy định tại điểm b Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Từ phân tích trên, xét kháng cáo của ông D là không có căn cứ chấp nhận, cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của Đại diện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau là phù hợp.

[5] Án phí dân sự sơ thẩm, phúc thẩm ông Nguyễn Thái D phải chịu theo quy định.

 [6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên không đặt ra xem xét.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Thái D.

Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 150/2020/DS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2020 của Toà án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

Tuyên xử:

- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Dương Hồng X.

Buộc ông Nguyễn Thái D trả cho bà Dương Hồng X 02 (hai) lượng vàng 24K.

 - Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Thái D phải chịu số tiền 5.300.000 đồng. Bà Dương Hồng X không phải chịu án phí ngày 28/5/2020, bà X đã dự nộp số tiền 2.365.000 đồng theo biên lai thu số 0001910 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau được nhận lại.

- Án phí dân sự phúc thẩm ông Nguyễn Thái D phải chịu số tiền 300.000 đồng; ngày 14/10/2020, ông D đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0000024 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau được đối trừ chuyển thu án phí.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 265/2020/DS-PT ngày 02/12/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:265/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 02/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;