TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 263/2020/HS-ST NGÀY 26/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 05 năm 2020, tại trụ sở TAND Thành phố Biên Hòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số : 138/2020/TLST-HS ngày 18/03/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 170/2020/QĐXXST-HS ngày 14/04/2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 343/2020/QĐST-HS ngày 29/4/2020 đối với các bị cáo:
- Lê Trọng N, sinh năm 1990 tại tỉnh Cà Mau. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 29/6K Phạm Văn Chiêu, Phường 14, Quận G, Thành phố H. Nơi cư trú: Không có nơi cư trú ổn định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Đức H(còn sống) và bà Ngô Thị H1(còn sống); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt từ ngày 03/12/2019, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, có mặt.
- Hứa Tấn L, sinh năm 1990 tại tỉnh Cà Mau. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 507/22A, đường Thống Nhất, Phường 16, Quận G, Thành phố H. Nơi cư trú: Không có nơi cư trú ổn định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hứa Tấn L (đã chết) và bà Lâm Hương L1(còn sống); Bị cáo sống chung như vợ chồng với chị Dương Thị Mỹ N, có 01 con chung sinh năm 2015; Tiền án: Có 01 tiền án, cụ thể ngày 06/09/2016, bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 11/05/2018; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 20/09/2007 bị Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02(hai) năm 06(sáu) tháng tù về tội “ Cướp giật tài sản”, được trả tự do ngày 01/12/2008; Ngày 21/05/2009, bị Tòa án nhân dân Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01(một) năm 06(sáu) tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 03/02/2010; Ngày 21/01/2011 bị Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “ Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 07/12/2013. Bị cáo bị bắt từ ngày 27/12/2019, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, có mặt.
- Bị hại: Chị Nguyễn Thị Bích T, sinh năm 1991. Trú tại: 106/37H, tổ 15, Khu phố Bình Dương, Phường T, Thành phố B, tỉnh Đ, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 8 giờ ngày 03 tháng 12 năm 2019 Lê Trọng N đã rủ Hứa Tấn L là đối tượng nghiện ma túy, sống lang thang tại khu vực Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh đi trộm cắp tài sản. L sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade không rõ biển số chở N từ Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh mang theo một kìm chết đi về hướng Thành phố Biên Hòa tìm tài sản của người dân sơ hở để trộm cắp. Khoảng 9 giờ cùng ngày, N và L đi đến dãy phòng trọ tại địa chỉ 106/37H, tổ 15, khu phố Bình Dương, phường T, Thành phố B, tỉnh Đ, thấy dãy nhà trọ không có người trông coi nên N và L điều khiển xe đi vào dãy trọ dùng kìm phá khóa cửa phòng số 04 vào trong lục tìm tài sản và trộm được 01 xe mô tô nhãn hiệu Honđa Wave RSX biển kiểm soát 67M1-077.65, một máy tính bản hiệu “KingCom”, 01 ti vi hiệu TCL loại LCD 40 inh và một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 của chị Nguyễn Thị Bích T. L điều khiển xe honda Airblade chở theo tivi trộm được chạy ra trước, N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave RSX biển kiểm soát 67M1-077.65 vừa trộm được đi phía sau. Anh Lương Văn S và anh Tống Thanh S1 là lực lượng bảo vệ khu phố Bình Dương khi đang đi tuần tra thì phát hiện N và L có nhiều biểu hiện nghi vấn nên đã theo dõi khi N và L đi vào dãy trọ trộm cắp tài sản thì anh Sơn và anh Sang ở ngoài chờ các đối tượng ra bắt giữ, Khi L và N đi ra khỏi dãy trọ thì anh Sơn và anh Sang bắt giữ được N và báo công an phường Long Bình Tân, còn L chạy thoát và công an thành phố Biên Hòa đã mời L đến làm việc và L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Vật chứng vụ án:
+ Một xe mô tô nhãn hiệu Hon đa Airblade không rõ biển kiểm soát của Hứa Tấn L, L và N sử dụng đi trộm cắp, sau khi trộm cắp L đã bán cho một người không rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Thành phố Biên Hòa không thu hồi được.
+ Một xe mô tô nhãn hiệu Honđa Wave RSX biển số 67M1-077.65, một máy tính bản hiệu “KingCom”, một tivi nhãn hiệu TCL loại LCD 40 inch và một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 của chị Nguyễn Thị Bích T bị L và N trộm cắp, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu hồi được xe mô tô nhãn hiệu Honđa Wave RSX biển số 67M1-077.65, một máy tính bản hiệu “KingCom” trả cho chị Thùy. Một tivi nhãn hiệu TCL loại LCD 40 inch và một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Hứa Tấn L bán cho một người mua đồ điện tử cũ không rõ nhân thân, lai lịch ở khu vực quận 12, thành phố Hồ Chí Minh, cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Biên Hòa không thu hồi được.
+ Một chiếc kìm chết L mang theo dùng bẻ khóa để trộm cắp tài sản L đã vứt đi sau khi trộm cắp tài sản nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa không thu hồi được.
+ Một ổ khóa nhãn hiệu Việt Tiệp, chị T dùng đề khóa cửa bị L và N bẻ khóa, Cơ quan cảnh sát điều tra Thành phố Biên Hòa đã trả lại cho chị Thùy.
- Tại bản kết luận định giá tài sản số 604/TCKH-HĐĐG ngày 06/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hòa đã kết luận: Một xe mô tô nhãn hiệu Honđa Wave RSX biển số 67M1-077.65, một máy tính bản hiệu “KingCom”, một tivi nhãn hiệu TCL loại LCD 40 inch và một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 có trị giá là 13.244.700đ (mười ba triệu hai trăm bốn mươi bốn ngàn bảy trăm đồng).
Tại cáo trạng số 160/CT/VKSBH-HS, ngày 16/03/2020, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố các bị cáo Lê Trọng N và Hứa Tấn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa bị hại trình bày: Bị hại không có ý kiến gì về bản cáo trạng. Về dân sự chị Thùy yêu cầu bị cáo L và bị cáo N bồi thường số tiền 6.500.000đ (sáu triệu năm trăm ngàn đồng), cụ thể là 01 điện thoại iphone 6 trị giá 500.000đ và một ti vi TCL trị giá 6.000.000đ.
Tại phiên tòa các bị cáo trình bày: Các bị cáo đồng ý với bản cáo trạng. Về dân sự, các bị cáo đồng ý bồi thường cho chị T số tiền 6.500.000đ( sáu triệu năm trăm ngàn đồng). Ngoài ra các bị cáo không có ý kiến gì khác.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên các bị cáo Lê Trọng N và Hứa Tấn L về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Về nhân thân: Bị cáo Lê Trọng N phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Bị cáo Hứa Tấn L là người có nhân thân xấu và phạm tội thuộc trường hợp tái phạm vì bị cáo đã có 01 tiền án về tội “ Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Tuy nhiên trong quá trình làm việc và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Về mức hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Lê Trọng N và Hứa Tấn L mỗi bị cáo từ 12 (mười hai) đến 16 (mười sáu) tháng tù.
- Về dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của các bị cáo về việc bồi thường thiệt hại cho chị T số tiền 6.500.000đ (sáu triệu năm trăm ngàn đồng). Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra công khai và kết quả tranh luận tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của các bị cáo và bị hại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và bị hại không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật.
[2] Thực tế có cơ sở chứng minh, Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 03/12/2019, tại dãy nhà trọ số 106/37H, tổ 15, khu phố Bình Dương, phường T, thành phố B, tỉnh Đ, Lê Trọng N và Hứa Tấn L đã có hành vi trộm cắp một xe mô tô nhãn hiệu Honđa Wave RSX biển số 67M1-077.65, một máy tính bản hiệu “KingCom”, một tivi nhãn hiệu TCL loại LCD 40 inch và một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 có trị giá là 13.244.700đ (mười ba triệu hai trăm bốn mươi bốn ngàn bảy trăm đồng) của chị Nguyễn Thị Bích T là có thật. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ nên có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Lê Trọng N và Hứa Tấn L phạm tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 ( đã được sửa đổ bổ sung) năm 2017.
[3] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa thì thấy: Trong vụ án này các bị cáo phạm tội mang tính đồng phạm xong ở mức độ giản đơn. Bị cáo N là người rủ rê bị cáo L và là người khởi xướng việc trộm cắp tài sản. Bị cáo L tích cực thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo L là người có nhân thân xấu và có 01 tiền án về tội “ Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý. Tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo N phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Xét thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo và giáo dục các bị cáo có ý thức tuân thủ pháp luật.
[5] Về vật chứng mà các bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội là một chiếc kìm chết L mang theo dùng bẻ khóa để trộm cắp tài sản L đã vứt đi sau khi trộm cắp tài sản nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa không thu hồi được nên không có cơ sở xử lý.
[6] Về dân sự: cần buộc các bị cáo N và L có N vụ liên đới bồi thường thiệt hại cho chị Nguyễn Thị Bích T số tiền 6.500.000đ (sáu triệu năm trăm ngàn đồng).
[7] Xét đề nghị của đại diện VKSND thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định nêu trên nên cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo N; Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo L.
- Tuyên bố các bị cáo: Lê Trọng N và Hứa Tấn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Xử phạt bị cáo Lê Trọng N 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03 tháng 12 năm 2019;
- Xử phạt bị cáo Hứa Tấn L 15(mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 12 năm 2019;
2. Về dân sự: Căn cứ các Điều 46 và 48 của Bộ luật hình sự; Các điều 584, 585 và 589 của Bộ luật dân sự năm 2015:
- Buộc các bị cáo Lê Trọng N và Hứa Tấn L có N vụ liên đới bồi thường số tiền 6.500.000đ (sáu triệu năm trăm ngàn đồng), cụ thể mỗi bị cáo bồi thường 3.250.000đ (ba triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng) cho chị Nguyễn Thị Bích T.
- Kể từ khi người yêu cầu có đơn yêu cầu thi hành án mà các bị cáo chưa thanh toán số tiền nêu trên thì các bị cáo còn phải chịu theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
3. Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 162.500đ (một trăm sáu mươi hai ngàn năm trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
4. Các bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 263/2020/HS-ST ngày 26/05/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 263/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/05/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về