Bản án 263/2019/HSST ngày 31/10/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 263/2019/HSST NGÀY 31/10/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 31/10/2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục rút gọn vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 269/2019/TLST-HS, ngày 17/10/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 265/2019/QĐXXST-HS ngày 25/10/2019 đối với bị cáo:

Phạm Hồng H, sinh năm 1983.

Nơi ĐKHKTT: Khu 6, phường T, thành phố B, tỉnh B; Chỗ ở: Số 10 đường L, khu H, phường V, thành phố B, tỉnh B.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12;; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Phạm Văn T, sinh năm 1958; Đã chết và bà: Vương Thị T, sinh năm 1958; Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con lớn nhất;

Chồng: Chưa có; Con: Có 03 con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2015;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ 17/9/2019 đến ngày 18/9/2019 được thay thế bằng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 17h50‟ ngày 17/9/2019, tại nhà riêng của Phạm Hồng H, sinh năm 1983 ở số 10 đường L, khu H, phường V, thành phố B, tỉnh B, tổ công tác của Đội Cảnh sát hình sự Công an thành phố B bắt quả tang H đang có hành vi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức bán số lô, số đề cho ba đối tượng tự khai là Nguyễn Hồng G, sinh năm 1989; HKTT: Khu 5, phường Đ, thành phố B; Đỗ Văn T, sinh năm 1980; HKTT: Khu 4, phường T, thành phố B và Phạm Văn Đ, sinh năm 1987, HKTT: Khu T, phường V, thành phố B Vật chứng thu giữ: Thu của H 01 tờ cáp to trên có ghi các số lô, số đề; 03 tờ cáp nhỏ trên có ghi các số lô, số đề H bán cho G, T và Đ; số tiền 7.670.000 đồng; 01 chiếc bút bi mực màu đen.

Với nội dung trên, Phạm Hồng H bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố B ra Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số: 10/QĐ-VKS-TPBN ngày 14 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo về tội “Đánh bạc” theo khoản 1, Điều 321 Bộ luật hình sự.

Quá trình xét hỏi tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình: Lợi dụng kết quả Xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng hàng ngày, H đã đánh bạc bằng hình thức bán số lô, số đề cho khách theo kết quả xổ số. Cách thức đánh bạc dưới hình thức mua, bán số lô, số đề được H và những người chơi thống nhất lấy kết quả Xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng vào hồi 18h15‟ đến 18h30‟ hàng ngày làm căn cứ so sánh, được thua như sau: Nếu mua số “lô” thì so sánh hai số cuối của tất cả các giải thưởng, nếu trùng với số của người chơi thì H phải trả cho người chơi là 01 điểm = 80.000 đồng (01 điểm lô người chơi phải trả cho Hạnh = 23.000 đồng) và cứ thế nhân lên với số tiền của người chơi. Nếu mua số “đề” giải nhất hoặc giải đặc biệt thì lấy hai số cuối của giải nhất hoặc giải đặc biệt, nếu trùng với số của người chơi đã mua thì H phải trả cho người chơi số tiền gấp 80 lần số tiền người chơi đã mua số “đề”. Trường hợp kết quả không trùng với những số người chơi đã mua của H thì H sẽ được toàn bộ số tiền đó. H ghi bán số “lô, đề” trực tiếp với những người chơi, sau đó tính thắng, thua trả tiền cho những người người chơi, không chuyển tờ cáp đề cho ai.

Khong 17h15‟ ngày 17/9/2019, khi H đang bán hàng nước ở quán trước cửa nhà thì có 03 thanh niên không quen biết (sau biết tên là G, T và Đ) đến nguồi uống nước và bảo H bán các số lô, số để. H đồng ý. G bảo H bán cho số lô 22 là 100 điểm, số đề 22 một cửa đặc biệt 700.000 đồng. Tổng số tiền H bán số lô, số đề cho G là 3.000.000 đồng. H viết các số vào tờ cáp nhỏ đưa cho G, viết các số vào tờ cáp to của H và nhận tiền của G. Tiếp đó, T bảo H bán cho các số lô 02, 20 mỗi số 40 điểm, số đề 20 một cửa đặc biệt là 160.000 đồng. Tổng số tiền T phải trả H là 2.000.000 đồng. H viết các số vào tờ cáp nhỏ đưa cho T, viết các số vào tờ cáp to của H và nhận tiền từ T. Tiếp đó Đ bảo H bán cho số lô 95 là 30 điểm, số đề 95 một cửa đặc biệt là 310.000 đồng. Tổng số tiền Đ phải trả H là 1.000.000 đồng. H viết các số vào tờ cáp nhỏ đưa cho Đ, viết các số vào tờ cáp to của H và nhận tiền từ Đ. Khi vừa nhận tiền từ Đ thì bị lực lượng Công an bắt quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Thời điểm lực lượng Công an bắt quả tang H về hành vi đánh bạc như nêu trên thì chưa mở thưởng kết quả xổ số. Ngoài bán số lô, đề cho G, Tvà Đ, H còn bán số lô, đề cho một số người đi đường không quen biết. Ngày 19/9/2019, H tự nguyện giao nộp số tiền 2.310.000 đồng. Tổng số tiền H bán số lô, đề trong ngày 17/9/2019 là 9.980.000 đồng.

Bị cáo thừa nhận Quyết định truy tố của VKSND thành phố B truy tố bị cáo về tội “Đánh bạc” là đúng.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ quyền công tố tại phiên toà sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với các bị cáo giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phạm Hồng H về tội “Đánh bạc” theo Khoản 1 Điều 321 và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Khoản 1, Điều 321; Điểm i, s khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phạm Hồng H từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

Đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền dùng vào việc đánh bạc là 9.980.000 đồng, tịch thu tiêu hủy 01 bút bi màu đen. Đối với các tờ cáp ghi ngày 17/9/2019 thu giữ của bị cáo H và G, T và Đ cần lưu vào hồ sơ vụ án.

Bị cáo nhất trí với phần luận tội và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo có hành vi đánh bạc dưới hình thức bán số lô, số đề với tổng số tiền là 9.980.000đồng. Quyết định truy tố số 10/QĐ-VKSNDTPBN ngày 14/10/2019 đã truy tố bị cáo về tội Đánh bạc‟‟ theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an tại địa phương đồng thời là nguyên nhân dẫn các gia đình vào cảnh túng quẫn, mâu thuẫn vợ chồng. Mặt khác còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây dư luận bất bình trong quần chúng nhân dân. Xét thấy cần phải xử lý nghiêm bị cáo nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[2] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tại cơ quan điều tra bị cáo nhận thức được hành vi đánh bạc là trái phép, vi phạm pháp luật song vì ham lợi nên ngày 17/9/2019 bị cáo đã có hành vi phạm tội. Tuy nhiên số tiền bị cáo dùng vào việc đánh bạc không lớn. Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình,trước phiên tòa, trong thời gian chờ xét xử, bị cáo tự nguyện nộp số tiền 10.200.000đồng để chờ xử lý. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt nên không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, xử bị cáo bằng hình phạt tù mà chỉ cần áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính cũng đủ giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[3] Về tang vật của vụ án:

Đi với 01 bút bi màu đen bị cáo đã sử dụng trong việc thực hiện tội phạm cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với số tiền 9.980.000 đồng thu giữ của bị cáo, xác định đây là tiền bị cáo có được do hành vi thực hiện tội phạm vì vậy cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Đi với các tờ cáp ghi ngày 17/9/2019 thu giữ của bị cáo H và G, T, Đ cần lưu vào hồ sơ vụ án.

Đi với Nguyễn Hồng G; Đỗ Văn T, Phạm Văn Đ là ba người đã mua số lô, đề của H ngày 17/9/2019. Quá trình xác minh tại các phường Đ, T và V không có ba đối tượng nào có đặc điểm như trên. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Hồng H phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng Khoản 1 Điều 321; Điểm i, s Khoản 1, Khoản 2, Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự;

Phạt bị cáo Phạm Hồng H 30.000.000đồng.

Xác nhận Phạm Hồng H đã nộp số tiền 10.200.000đồng tại biên lai số AA/0002249 ngày 30/10/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu huỷ: 01 bút bi màu đen.

Tch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 9.980.000đ (Sáu triệu một trăm bẩy mươi nghìn đồng). Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/10/2019 giữa Công an thành phố Bắc Ninh với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B.

u hồ sơ vụ án 04 tờ cáp đề thu giữ của Phạm Hồng H, Nguyễn Hồng G;

Đỗ Văn T; Phạm Văn Đ vào ngày 17/9/2019.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án Bị cáo Phạm Hồng H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 263/2019/HSST ngày 31/10/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:263/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;