Bản án 26/2021/HSST ngày 02/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH BẮC GIANG

 BẢN ÁN 26/2021/HSST NGÀY 02/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 02 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Y, Bắc Giang xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 17/2021/TLST- HS ngày 17 tháng 02 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2021/QĐXXST- HS ngày 10 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/HSST- QĐ ngày 25 tháng 3 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Vũ Ngọc Kh, sinh năm 1982; Tại số 13/83 phố B, phường Ph, thành phố N, tỉnh Nam Định.

Nơi ĐKHKTT và nơi ở: số 13/83 phố B, phường Ph, thành phố N, tỉnh Nam Định; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Vũ Ngọc Q; Và bà: Trần Thị Q; Có vợ: Vũ Thị H; Và 02 con lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2014; Tiền án, Tiền sự, Nhân thân: không Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại ( Có mặt).

2. Ngô Văn D, sinh năm 1992; Tại thôn C, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Nơi ĐKHKTT và nơi ở: thôn C, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Hoa; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Ngô Văn Th; Và bà: Sầm Hổ S; Có vợ: Lục Thị M; con chưa có; Tiền án, Tiền sự: không; Nhân thân: Bản án số 189/2020/HSSt ngày 26/11/2020 Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang xử phạt 15 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, hiện đang chấp hành án tại Trại giam Tân Lập, tỉnh Phú Thọ ( có mặt) Bị hại: Công ty TNHH công nghệ CH.

Địa chỉ: Tầng 2, số 88, đường Bàu Cát 3, phường 14, quận T, thành phố Hồ Chí Minh Người đại diện ủy quyền của bị hại: Anh Vũ Duy H, sinh năm 1986; HKTT ở tổ 11, phường T, thành phố Th, hiện ở khu Chung cư Bách Việt thuộc phường D, TP B ( vắng mặt) Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Phan Văn T, sinh năm 1986; Nơi ĐKHKTT: Thôn Thu, xã Xu, huyện S, thành phố Hà Nội; chỗ ở hiện nay: Thôn Gi xã N, huyện Y, tỉnh Bắc Giang ( vắng mặt).

2. Chị Ngô Thị H, sinh năm 2001; Nơi ĐKHKTT: Thôn Th , xã X, huyện S, thành phố Hà Nội; chỗ ở hiện nay: Thôn Gi , xã N, huyện Y, tỉnh Bắc Giang ( vắng mặt)

 3. Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1996; Nơi ĐKHKTT: Thôn Th, xã X, huyện S, thành phố Hà Nội; chỗ ở hiện nay: Thôn Gi, xã N, huyện Y, tỉnh Bắc Giang ( vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 14/6/2020, Ngô Văn D, sinh năm 1992 ở thôn C, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang và Vũ Ngọc Kh, sinh năm 1982 ở số 13/83 phố B, phường Ph, thành phố N đi đến khu công nghiệp V, xã N, huyện Y, tỉnh Bắc Giang để bán hàng nước. Khoảng 14 giờ cùng ngày, do trời mưa nên D và Kh dọn hàng đi về, D điều khiển xe mô tô BKS 18B1-250.32 của Kh chở Kh đi về phòng trọ của D ở thôn Tr, xã N, huyện Y. Khi đi qua bãi đất cạnh khu vực xây dựng nhà xưởng công ty Luxshare ICT thuộc xã N, huyện Y, tỉnh Bắc Giang, D và Kh nhìn thấy có nhiều hộp máng điện bằng kim loại màu trắng hình hộp chữ nhật, được ghép bằng 2 tấm kim loại có chiều dài 2 m là tài sản của công ty TNHH công nghệ Ch, địa chỉ: Tầng 2, số 88, đường Bàu Cát 3, phường 14, quận T, thành phố Hồ Chí Minh. Quan sát thấy không có ai trông coi nên D và Kh nảy sinh ý định trộm cắp những hộp máng điện này đem đi bán lấy tiền chi tiêu cá nhân, Kh bảo D điều khiển xe đỗ lại gần vị trí để hộp máng điện để Khánh xuống lấy thì D đồng ý. Kh xuống xe lấy 01 hộp máng điện để lên yên xe rồi cùng nhau đi đến cửa hàng mua bán sắt vụn ở thôn Gi, xã N, huyện Y bán hộp máng điện cho chủ cửa hàng là anh Phan Văn T, sinh năm 1986 ở thôn Th, xã X, huyện S , thành phố Hà Nội với giá 5.500 đồng/ 1kg. Anh T cân hộp máng điện này lên thì được 28kg, anh T định trả tiền cho Kh nhưng Kh nói là vẫn còn, để sau tính tiền một thể. Sau đó, D chở Kh quay lại vị trí để vật liệu xây dựng rồi Kh xuống xe lấy 02 hộp máng điện đem đến bán cho anh T tổng số 03 hộp máng điện được 470.000 đồng, anh T đưa cho Kh 500.000 đồng, tiền thừa anh T bảo khi nào có trả sau. Số tiền này Kh chia cho D 200.000 đồng, còn 300.000 đồng Kh chi tiêu cá nhân hết. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 14/6/2020, D điều khiển xe mô tô chở Kh quay lại vị trí tập kết vật liệu xây dựng của công ty TNHH công nghệ Ch để trộm cắp tài sản, Kh xuống xe lấy 02 hộp máng điện rồi cùng nhau đi đến cửa hàng mua bán sắt vụn ở gần quán của anh T bán 02 hộp máng điện cho chủ cửa hàng là chị Nguyễn Thị H, sinh năm 2001 ở thôn Th, xã X, huyện S, thành phố Hà Nội với giá 5.500 đồng/1kg, chị H cân hộp máng điện này thì được 28kg, Kh bảo chị H vẫn còn nữa để mang đến rồi thanh toán một thể. Kh và D quay lại khu để vật liệu xây dựng lấy thêm 03 lần mỗi lần lấy được 03 hộp máng điện đem đến bán cho chị H tổng số 11 hộp máng điện được 1.700.000 đồng. Số tiền này Kh chia cho D 800.000 đồng, còn 900.000 đồng Kh đã chi tiêu cá nhân hết.

Ngày 16/6/2020, công ty TNHH công nghệ CH phát hiện bị mất tài sản, anh Vũ Duy H, sinh năm 1986 có HKTT ở tổ 11, phường T, thành phố Thái Nguyên, hiện ở khu Chung cư B thuộc phường D, TP Bắc Giang là đại diện theo ủy quyền làm đơn trình báo Công an huyện Y.

Ngày 16/6/2020, Công an huyện Y xác minh và triệu tập Vũ Ngọc Kh đến làm việc, qua đấu tranh Kh thừa nhận hành vi phạm tội và giao nộp 01 chiếc xe mô tô BKS 18 B1- 250.30 cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y. Cùng ngày, chị Nguyễn Thị H giao nộp 11 bộ máng điện mua của Kh và D cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y.

Ngày 15/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y yêu cầu định giá tài sản bị chiếm đoạt. Tại bản Kết luận định giá tài sản số 76/KL-ĐGTS ngày 20/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Y kết luận: 14 (mười bốn) bộ máng điện loại 300x 100x 1,2mm, mỗi bộ gồm 02 thanh máng điện và 02 nắp máng điện, chiều dài mỗi thanh máng điện là 2m tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là 8.336.000 đồng (trong đó 3 bộ máng điện có giá trị là 1.786.000 đồng, 11 bộ máng điện có giá trị là 6.550.000 đồng).

Cáo trạng số 18/CT- VKSYD ngày 01 tháng 02 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố các bị cáo Vũ Ngọc Kh và Ngô Văn D về tội “ Trộm cắp tài sản ” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình như đã nêu trên.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Các bị cáo Vũ Ngọc Kh và Ngô Văn D phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng Khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1,2 Điều 51, Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt Vũ Ngọc Kh từ tháng đến 08 tháng tù đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 16 tháng đến 20 tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Kh cho UBND phường Ph giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành án.

Áp dụng Khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38, khoản 1 Điều 56 của Bộ luật hình sự, xử phạt Ngô Văn D từ 06 tháng đến 08 tháng tù, tổng hợp hình phạt 15 tháng tù của bản án số 189 của Tòa án nhân dân thành phố B, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho 02 bản án từ 21 tháng đến 23 tháng tù, nhưng được trừ thời gian đã chấp hành án.

Áp dụng Điều 136 BLTTHS, Nghị quyết 326/2016 Quốc Hội khóa 14 ngày 30/12/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Kh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Kể từ khi khởi tố vụ án hình sự, trong giai đoạn điều tra, truy tố vụ án, Hội đồng xét xử thấy Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật, không có vi phạm gì.

[2] Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình. Lời nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, phù hợp với thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm và các chứng cứ khác, có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ 14 giờ đến 19 giờ 30 phút ngày 14/6/2020, tại khu vực tập kết vật liệu xây dựng cạnh khu vực xây dựng nhà xưởng công ty Luxshare ICT thuộc xã N, huyện Y, tỉnh Bắc Giang. Vũ Ngọc Kh, sinh năm 1982 ở số 13/83 phố B, phường Ph, thành phố N cùng Ngô Văn D, sinh năm 1992 ở thôn C, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang có hành vi trộm cắp 14 (mười bốn) bộ máng điện loại 300 x 100 x 1,2mm giá trị 8.336.000 đồng của công ty TNHH công nghệ Ch có địa chỉ ở số 88, đường Bàu Cát 3, phường 14, quận T, thành phố Hồ Chí Minh, đem đến cửa hàng thu mua phế liệu ở thôn Gi, xã N, huyện Y bán cho chủ cửa hàng là anh Phan Văn T, sinh năm 1986 và chị Nguyễn Thị H, sinh năm 2001 đều ở thôn Th, xã X, huyện S, thành phố Hà Nội được tổng số 2.200.000 đồng chia nhau chi tiêu cá nhân hết. Cơ quan điều tra đã thu hồi được 11 bộ máng điện trả lại cho anh Vũ Duy H là đại diện theo ủy quyền của công ty TNHH công nghệ Ch.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố các bị cáo Vũ Ngọc Kh và Ngô Văn D về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến tài sản của công ty TNHH công nghệ Ch được pháp luật bảo vệ, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, cần xử lý các bị cáo bằng pháp luật hình sự, xử phạt các bị cáo một hình phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung. Xét thấy, các bị cáo thực hiện hành vi không có sự bàn bạc, không liên kết chặt chẽ, không có sự phân công nhiệm vụ. Các bị cáo thực hiện hành vi mang tính chất đồng phạm giản đơn, không có căn cứ xác định các bị cáo phạm tội có tổ chức. Các bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, bị cáo Kh thuộc hộ cận nghèo, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung.

Xét vai trò của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Kh là khởi xướng, trực tiếp lấy tài sản để lên xe cùng D mang đi bán, do đó Kh có vai trò chính trong vụ án, sau đó là D.

[3] Tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo Kh phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Bố đẻ của bị cáo Kh có công với cách mạng được tặng huy chương kháng chiến hạng 2; Áp dụng điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo, riêng bị cáo Kh áp dụng thêm điểm i khoản 1, khoản 2 Điều 51 của bộ luật hình sự khi cân nhắc hình phạt.

[ 4] Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Song khi cân nhắc hình phạt Hội đồng xét xử thấy, bị cáo Kh có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, có 02 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, có 01 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng.

Hội đồng xét xử không nhất thiết phải cách ly bị cáo Kh khỏi xã hội mà cho cải tạo tại địa phương không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo giáo dục bị cáo trở thành người tốt sau này là phù hợp với quy định của Nghị quyết số 02/2018/NQ- HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo.

[ 6] Bị cáo Ngô Văn D có nhân thân xấu vì vậy Hội đồng xét xử áp dụng Điều 38 của Bộ luật hình sự, buộc bị cáo cách ly khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[5] Đối với anh Phan Văn T và vợ chồng chị Nguyễn Thị H, anh Nguyễn Văn B có hành vi mua hộp máng điện của Kh và D, nhưng anh T và vợ chồng chị H không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y không xử lý là có căn cứ.

[6] Về vật chứng: Đối với 03 hộp máng điện, Kh và D bán cho anh T, sau đó anh T đã bán cho một người đàn ông không quen biết, anh không biết người này ở đâu nên cơ quan điều tra không thu hồi lại được. Trong các ngày 30/8/2020 và 03/12/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã trả lại 11 bộ máng điện cho anh Vũ Duy H; 01 chiếc xe mô tô BKS 18B1-250.32 trả cho Vũ Ngọc Kh, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Công ty TNHH công nghệ CH đã nhận lại tài sản và không yêu cầu Kh và D bồi thường thêm; Chị H không yêu cầu D và Kh phải trả lại 1.700.000 đồng, Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 12, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm quy định của pháp luật. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Kh.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về áp dụng điều luật áp dụng:

Căn cứ Khoản 1 Điều 173, Điểm i, s Khoản 1, 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Vũ Ngọc Kh.

Áp dụng Khoản 1 Điều 173, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 56, Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Ngô Văn D Căn cứ Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 12, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; các Điều 331; 332, 333; 336, 337 Bộ luật tố tụng hình sự.

2. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố các bị cáo Vũ Ngọc Kh và Ngô Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

3. Về mức hình phạt, xử phạt:

3.1. Bị cáo Vũ Ngọc Kh 09 ( chín ) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 18 tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Vũ Ngọc Kh cho Ủy ban nhân dân phường Ph, thành phố N, tỉnh Nam Định, nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. 2. Bị cáo Ngô Văn D 07 ( bẩy) tháng tù tổng hợp hình phạt 15 tháng tù của bản án số 189/2020/HSST ngày 26 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố B, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 22 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 12/8/2020.

4. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không yêu cầu, Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra huyện Y đã xử lý, Hội đồng xét xử không xem xét.

6. Về án phí: Bị cáo Ngô Văn D phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vũ Ngọc Kh.

7. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế theo quy định tại điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 26/2021/HSST ngày 02/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:26/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thế - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;