Bản án 26/2021/HNGĐ-ST ngày 21/07/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN YÊN, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 26/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/07/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 392/2020/TLST-HNGĐ, ngày 02 tháng 12 năm 2020 về việc: “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 14 tháng 6 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 17/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 01 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bàn Thị L, sinh năm 1987. Có mặt Địa chỉ: Thôn T, xã X, huyện V, tỉnh Yên Bái

2. Bị đơn: Anh Bàn Kim T. Tên gọi khác: Bàn Tòn L, sinh năm 1985 Vắng mặt Địa chỉ: Thôn T, xã X, huyện V, tỉnh Yên Bái 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 02-12-2021 bản tự khai và các tài liệu có trong hồ sơ cùng lời khai tại phiên tòa nguyên đơn chị Bàn Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Bàn Kim T (Bàn Tòn L) tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 19 tháng 12 năm 2004 tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện V, tỉnh Yên Bái. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 4 năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn nhiều lần vợ chồng cãi nhau, có lần anh T đã đánh chị L nguyên nhân do quan điểm sống bất đồng, tính cách không hợp nhau, anh T không quan tâm đến gia đình, những mâu thuẫn đó đã được gia đình bên nội và bên ngoại nhiều lần hòa giải nhưng không được. Từ tháng 02 năm 2018 đến nay chị L và anh T không sống cùng nhau nữa. Nay chị L xác định tình cảm vợ chồng đã hết. Chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Bàn Kim T.

Về nuôi con chung: Chị và anh Bàn Kim T (Bàn Tòn L) có 01 con chung cháu là Bàn Thị Ngọc T1, sinh ngày 08 tháng 5 năm 2007. Hiện nay cháu T1 đang sống cùng chị L, chị L đề nghị Tòa án giải quyết được nuôi dưỡng cháu T1 đến năm 18 tuổi và chị L không yêu cầu anh Bàn Kim T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về chia tài sản chung và nợ chung: Chị và anh Bàn Kim T (Bàn Tòn L) không có tài sản chung và không nợ ai nên chị L không đề nghị Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Bàn Kim T. Tên gọi khác: Bàn Tòn L vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên không có lời khai trong hồ sơ vụ án và cũng không có văn bản trình bày ý kiến, yêu cầu gì. Tại phiên tòa anh Bàn Kim T (Bàn Tòn L) đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Bàn Kim T (Bàn Tòn L) có hộ khẩu thường trú Thôn T, xã X, huyện V, tỉnh Yên Bái, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái.

Tại phiên tòa bị đơn anh Bàn Kim T (Bàn Tòn L) đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Bàn Thị L và anh Bàn Kim T (Bàn Tòn L) tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 19 tháng 12 năm 2004 tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện V, tỉnh Yên Bái. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 4 năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn nhiều lần vợ chồng cãi nhau, có lần anh T đã đánh chị L nguyên nhân do quan điểm sống bất đồng, tính cách không hợp nhau, anh T không quan tâm đến gia đình, những mâu thuẫn đó đã được gia đình bên nội và bên ngoại nhiều lần hòa giải nhưng không thành. Từ tháng 02 năm 2018 đến nay chị L và anh T không sống cùng nhau nữa và không còn quan tâm đến nhau.

Nay chị Bàn Thị L xác định tình cảm vợ chồng đã hết. Chị L đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Bàn Kim T. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo phiên hoà giải nhiều lần nhưng anh T đều cố tình lẩn tránh và vắng mặt không có lý do, nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Từ đó có căn cứ cho rằng mâu thuẫn giữa chị Bàn Thị L và anh Bàn Kim T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị L là có căn cứ. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình để chấp nhận yêu cầu của chị L xử cho chị Bàn Thị L được ly hôn anh Bàn Kim T (Bàn Tòn L) là có cơ sở.

[3] Về nuôi con chung: Chị Bàn Thị L và anh Bàn Kim T (Bàn Tòn L) có 01 con chung cháu Bàn Thị Ngọc T1, sinh ngày 08 tháng 5 năm 2007. Hiện nay cháu T1 đang sống cùng chị L cuộc sống ổn định, cháu T1 có đơn đề nghị Tòa án giải quyết được ở cùng chị L, chị L có thu nhập khoảng 4.000.000 đồng/01tháng, anh Bàn Kim T thường xuyên vắng mặt tại địa phương.

Từ những căn cứ nêu trên xét thấy đề nghị của chị Bàn Thị L được nuôi dưỡng cháu Bàn Thị Ngọc T1 là chính đáng phù hợp với nguyện vọng của cháu T1 do đó cần giao cháu T1 cho chị L tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Bàn Thị L không yêu cầu anh Bàn Kim T (Bàn Tòn L) phải cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Bàn Thị L không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Bàn Thị L phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh Bàn Kim T (Bàn Tòn L) không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.

[7] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Bàn Thị L được ly hôn anh Bàn Kim T (Bàn Tòn L)

2. Về nuôi con chung: Giao cho chị Bàn Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Bàn Thị Ngọc T1, sinh ngày 08 tháng 5 năm 2007 cho đến khi các cháu T1 đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi khác.

Anh Bàn Kim T (Bàn Tòn L) không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Bàn Kim T (Bàn Tòn L) có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Bàn Thị L phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số: AA/2017/0005378, ngày 02-12- 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Văn Yên (xác nhận chị L đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm) Án xử công khai sơ thẩm. Chị Bàn Thị L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Bàn Kim T (Bàn Tòn L) có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 26/2021/HNGĐ-ST ngày 21/07/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:26/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;