Bản án 26/2021/HNGĐ-ST ngày 15/04/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 26/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/04/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 484/2020/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 11 năm 2020 về ly hôn và tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 16/QĐST – HNGĐ ngày 17 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Tăng Ngọc Như A, sinh năm 1987; nơi cư trú: ấp Vĩnh A, xã V, huyện P, tỉnh Bình Dương; vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1991; nơi cư trú: số 36/3 Huỳnh Văn Luỹ, tổ 3, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 24-9-2020, lời khai trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn bà Tăng Ngọc Như A trình bày:

Về hôn nhân: Bà A và ông T chung sống có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn năm 2013 tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện P, tỉnh Bình Dương (Giấy chứng nhận kết hôn số 131, ngày 08-12-2011), là hôn nhân tự nguyện. Cuộc sống chung thời gian đầu hạnh phúc, nhưng đến năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, mâu thuẫn kéo dài nhiều năm không thể hàn gắn, bà A và ông T hiện nay đã ly thân. Nhận thấy cuộc sống chung không còn hạnh phúc, vợ chồng không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, tình cảm vợ chồng không còn nên bà A yêu cầu được xin ly hôn với ông T.

Về con chung: Bà A và ông T có 02 (hai) con chung là Nguyễn Thanh A, sinh ngày 01-9-2011 và Nguyễn Vĩnh B, sinh ngày 13-7-2019. Hiện nay hai con chung đang sinh sống với bà A, bà A có công việc ổn định. Bà A yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà A không tranh chấp, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Bà A có đơn xin xét xử vắng mặt.

Bị đơn ông T được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án làm việc, tham gia phiên họp công khai tài liệu chứng cứ, phiên hòa giải và phiên tòa, cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông T.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành đúng, đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định. Tính đến ngày Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử, vụ án còn trong thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do nên đề nghị xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 228 và điểm c khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung: yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Sự có mặt của đương sự tại phiên tòa:

Nguyên đơn bà Tăng Ngọc Như A vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt nên Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bà A theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn ông Nguyễn Thanh T được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà A khởi kiện ông T về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con; ông T có nơi cư trú tại phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Quan hệ hôn nhân: Hôn nhân của bà A và ông T là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Bà A trình bày sau một thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vả, không có sự tin tưởng, yêu thương tôn trọng lẫn nhau, hôn nhân không còn hạnh phúc nên bà A khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông T. Ông T không đến Toà án làm việc, không có văn bản trình bày ý kiến.

Xét thấy, vợ chồng phải có nghĩa vụ quan tâm chăm sóc lẫn nhau, việc bà A và ông T là vợ chồng nhưng không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, không còn cùng chia sẻ, thực hiện các công việc chung trong gia đình. Bên cạnh đó, ông T được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng không chấp hành việc triệu tập đến Toà án làm việc có cơ sở xác định ông T không có thiện chí hàn gắn mâu thuẫn vợ chồng, hiện nay bà A và ông T đã ly thân. Như vậy, ông T đã vi phạm nghiêm trọng đến quyền, nghĩa vụ của vợ chồng theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của bà A là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Xét thấy, cháu Nguyễn Thanh A, sinh ngày 01-9-2011 và Nguyễn Vĩnh B, sinh ngày 13-7-2019 hiện đang sinh sống với bà A, bà A làm công nhân có thu nhập ổn định, đủ điều kiện chăm sóc con chung. Tại biên bản lấy lời khai ngày 28- 01-2021, cháu A cũng có nguyện vọng được ở với bà A. Cháu B còn nhỏ, dưới 3 tuổi nên rất cần được mẹ chăm sóc. Căn cứ vào quyền, lợi ích hợp pháp về mọi mặt của cháu A và cháu B nên Hội đồng xét xử giao hai con chung là cháu Nguyễn Thanh A và Nguyễn Vĩnh B cho bà A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng theo quy định khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Bà A không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung nên Toà án không xem xét giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Bà A không tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Xét ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về việc tuân theo pháp luật tố tụng và về việc giải quyết vụ án là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí: Bà A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 19, khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 57, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, Điều 84, Điều 107, Điều 119 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Tăng Ngọc Như A đối với ông Nguyễn Thanh T về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

-Về hôn nhân: Bà Tăng Ngọc Như A được ly hôn với ông Nguyễn Thanh T .

- Về con chung: Giao 02 (hai) con chung là Nguyễn Thanh A, sinh ngày 01-9-2011 và Nguyễn Vĩnh B, sinh ngày 13-7-2019 cho bà Tăng Ngọc Như A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Ông Nguyễn Thanh T không cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.

Vì quyền lợi hợp pháp của con. Tòa án có thể thay đổi người nuôi con, giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà A không tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

2. Về án phí: Bà Tăng Ngọc Như A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào vào 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số AA/2016/0050567 ngày 20 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

3. Về quyền kháng cáo: nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 26/2021/HNGĐ-ST ngày 15/04/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:26/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;