Bản án 26/2020/HSST ngày 27/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 26/2020/HSST NGÀY 27/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 5 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 25/2020/HS-ST ngày 21 tháng 4 năm 2020, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn M; sinh ngày 09/7/1991 tại Kiên Giang; Nơi cư trú: ấp PL, xã MT B, huyện CT, tỉnh KG; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Đạo Thiên Chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn C, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị Đ; sinh năm 1968; Vợ tên Tống Hồng T, sinh năm 1995 và có 01 người con sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không Tuy nhiên: Vào ngày 31/8/2016 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang xử phạt 02 năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tại bản án số: 197/2016/HS-ST ngày 31/8/2016 (đã xóa án tích).

Bị cáo bị bắt giữ, tạm giam từ ngày 02/01/2020 (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Người làm chứng:

01/ Anh Lai Minh T, sinh năm 1994 (vắng mặt)

Trú tại: ấp PN, xã MT B, huyện CT, tỉnh KG

02/ Chị Trần Thị Mỹ N, sinh năm 1997 (vắng mặt)

Trú tại: Thị trấn OE, huyện TS, tỉnh AG

03/ Anh Huỳnh Huy H, sinh năm 1998 (vắng mặt)

04/ Anh Nguyễn Thanh L, sinh năm 1998 (vắng mặt)

Cùng trú tại: ấp HA, xã MT, huyện CT, tỉnh KG

05/ Anh Lê Ngọc T1, sinh năm 1995 (vắng mặt)

Trú tại: ấp HN, xã MT A, huyện CT, tỉnh KG

06/ Anh Nguyễn Ngọc T2, sinh năm 1982 (vắng mặt)

Trú tại: ấp PL, xã MT B, huyện CT, tỉnh KG

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn M là đối tượng nghiện ma túy, để có tiền mua sử dụng ma túy sử dụng, M đã nhiều lần mua ma túy của đối tượng Nguyễn Hoàng H sinh năm: 1989, cư trú: ấp PH, xã MT B, huyện CT, tỉnh KG và một đối tượng tên D (không xác định họ tên địa chỉ) để mang về sử dụng và chia nhỏ bán lại kiếm lời.

Vào ngày 02 tháng 01 năm 2020, khi M đang đi công việc tại chợ số 1 thuộc ấp HA, xã MT, huyện CT, tỉnh KG thì gặp Nguyễn Thanh L, Sinh năm 1998 cư trú chợ số 1 thuộc ấp ấp HA, xã MT, huyện CT, tỉnh KG là đối tượng nghiện ma túy. L hỏi mua ma túy của M với số tiền 130.000 đồng thì M đồng ý bán nhưng nói là hiện tại chưa có ma túy khi nào M có ma túy sẽ cho L hay. Cùng thời gian này, Lai Minh T và Trần Thị Mỹ N là hai đối tượng nghiện ma túy và biết được M có bán ma túy nên cả hai đã hùn nhau mỗi người 150.000 đồng được số tiền 300.000 đồng để mua ma túy của M. Sau đó T điện thoại cho M hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá thì M đồng ý bán và kêu T chạy xuống nhà M để lấy ma túy.

Khi có người hỏi mua ma túy Nguyễn Văn M gọi điện thoại cho H hỏi mua một bịch ma túy đá với giá 500.000 đồng thì H đồng ý bán. Sau đó M đi đến nhà H lấy 01 (một) bịch ma túy đá có kích thước 2,5 cm x 2,5 cm và trả tiền cho H 500.000đồng. Sau khi mua được ma túy M đem bịch ma túy về chia nhỏ thành 3 phần gồm: một phần ma túy để trong 01 (một) bịch ma túy đá có kích thước 01 cm x 2,5 cm; một phần ma túy đá bỏ vào chiếc nỏ thủy tinh cắm sẵn trong bình nhựa và một phần ma túy và phần ma túy còn lại vẫn để trong bịch ma túy có kích thước 2,5 cm x 2,5 cm mà Minh đã mua của H. Sau đó Minh điện thoại cho L đến để lấy ma túy. Tuy nhiên, L không trực tiếp đi mà nhờ Huỳnh Huy H1 đi đến nhà M để mua ma túy thay L.

Đến khoảng 19 giờ, H1, T và N đi đến nhà M, tại đây M bán cho T và N 01 bịch ma túy đá có kích thước 01 cm x 2,5 cm T và N trả cho M 300.000 đồng. Đồng thời M bán cho H1 một phần ma túy đá bỏ vào chiếc nỏ thủy tinh cắm sẵn trong bình nhựa H1 trả cho M 130.000 đồng. Khi M vừa bán ma túy cho T, N và H1 xong thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện và bắt quả tang. Tang vật thu giữ gồm: 01 (một) bịch nylon trong suốt được hàn kín, kích thước 01 cm x 2,5 cm, bên trong có chứa nhiều hạt tinh thể trong suốt, không đồng nhất màu trắng, nghi là chất ma túy (mẫu 1); 01 (một) nỏ thủy tinh được cắm trên bình nhựa có nắp màu xanh, bên trong nỏ thủy tinh có chứa nhiều hạt tinh thể trong suốt, không đồng nhất màu trắng, nghi là chất ma túy (mẫu 2); Tiền Việt Nam: 430.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng, Model: 6300 có dòng số 356415/02/17625312 đã qua sữ dụng, không kiểm tra tình trạng hoạt động bên trong. Ngoài ra, qua khám xét Cơ quan Công an còn thu giữ của M 01 (một) bịch nylon trong suốt được hàn kín, kích thước 2,5 cm x 2,5 cm (mẫu 2), theo lời khai của M bịch ma túy trên M dùng để bán lại cho ai có nhu cầu mua ma túy sử dụng. các vật chứng này đều được niêm phong theo đúng quy định.

Sau khi bắt quả tang Nguyễn Văn M có hành vi mua bán ma túy Cơ quan Công an đã đưa M về Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện CT để lấy lời khai. Tại đây M đã thừa nhận hành vi mua bán ma túy trái phép của mình.

Tại Kết luận giám định số: 03/KL-KTHS ngày 06 tháng 01 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh KG, kết luận:

- Mẫu 01: Nhiều hạt tinh thể dạng rắn, không đồng nhất màu trắng đựng trong 01 bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,0388 gam.

- Mẫu 02: Nhiều hạt tinh thể trong suốt, không đồng nhất màu trắng đựng trong 01 (một) cây nỏ thủy tinh màu trắng được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,0405 gam.

- Mẫu 03: Nhiều hạt tinh trong suốt, không đồng nhất màu trắng đựng trong 01 bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,1814 gam. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Trong quá trình điều tra M còn khai nhận ngoài lần bán ma túy bị bắt quả tang M còn bán ma túy cho các đối tượng Nguyễn Thanh L và Lê Ngọc T1 cụ thể:

01/ Bán ma túy cho đối tượng Lê Ngọc T1, sinh năm 1995, cư trú: Ấp HN, xã MT A, huyện CT, tỉnh KG: Khoảng 05 ngày trước ngày bị bắt quả tang, Lê Ngọc T1 đi đến nhà Nguyễn Văn M để hỏi mua 100.000 đồng ma túy về sử dụng thì M đồng ý bán. M đưa cho T1 01 bịch ma túy đá, T1 trả cho M 100.000 đồng.

02/ Bán ma túy cho đối tượng Nguyễn Thanh L: Khoảng 10 ngày trước ngày bị bắt quả tang, Nguyễn Thanh L điện thoại cho M hỏi mua một bịch ma túy với giá 200.000 đồng để mang về sử dụng thì Minh đồng ý. Sau đó, L đi đến nhà M. Tại đây M bán cho L một bịch ma túy L trả cho M 200.000 đồng.

Theo lời khai của M số ma túy mà M bán cho các đôi tượng T1 và L đều là do M mua của đối tượng H. Như vậy tổng số tiền M bán ma túy ngoài lần bị bắt quả tang là 300.000 đồng.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo đã tự thú về hành vi phạm tội trước đó. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Đồ vật, tài liệu thu giữ, tạm giữ, hướng xử lý vật chứng gồm:

- 01 phong bì màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, Niêm phong mẫu vật, vụ số 03/2020 Mẫu 01, ngày 06 tháng 01 năm 2020, người chứng kiến Lê Văn L, giám định viên Nguyễn Hoàng N có đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh KG; 01 Chiếc hộp màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KGPHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, Niêm phong mẫu vật, vụ số 03/2020 Mẫu 02, ngày 06 tháng 01 năm 2020, người chứng kiến Lê Văn L, giám định viên Nguyễn Hoàng N, có đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh KG và 01 phong bì màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, Niêm phong mẫu vật, vụ số 03/2020 Mẫu 03, ngày 06 tháng 01 năm 2020, người chứng kiến Lê Văn L, giám định viên Nguyễn Hoàng N, có đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh KG. Đây là các vật chứng sau khi giám định còn lại. Vật chứng này sẽ đề nghị tịch thu tiêu hủy. - Tiền Việt Nam: 430.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng, Model: 6300 có dòng số 356415/02/17625312 đã qua sữ dụng, không kiểm tra tình trạng hoạt động bên trong. Đối với các vật chứng trên là tang vật của vụ án đề nghị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Tại bản cáo trạng số: 30/CTr-VKS-CT ngày 21/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CT, tỉnh KG đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn M về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện CT vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị HĐXX áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 54 và Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M từ 03 đến 04 năm tù.

Về biện pháp tư pháp đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, Niêm phong mẫu vật, vụ số 03/2020 Mẫu 01, ngày 06 tháng 01 năm 2020, người chứng kiến Lê Văn L, giám định viên Nguyễn Hoàng N, có đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh KG; 01 Chiếc hộp màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, Niêm phong mẫu vật, vụ số 03/2020 Mẫu 02, ngày 06 tháng 01 năm 2020, người chứng kiến Lê Văn L, giám định viên Nguyễn Hoàng N, có đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh KG; 01 phong bì màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, Niêm phong mẫu vật, vụ số 03/2020 Mẫu 03, ngày 06 tháng 01 năm 2020, người chứng kiến Lê Văn L, giám định viên Nguyễn Hoàng N, có đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh KG.

-Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước số tiền 430.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng, Model: 6300 có dòng số 356415/02/17625312 đã qua sữ dụng, không kiểm tra tình trạng hoạt động bên trong.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận về quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện CT.

Bị cáo được nói lời nói sau cùng, bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện CT Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện CT, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiền hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các chứng cứ, tài liệu cũng như kết quả điều tra của Cơ quan điều tra và bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện CT, thể hiện: Nguyễn Văn M là đối tượng nghiện hút ma túy và để có ma túy sử dụng lâu dài M đã liên hệ với đối tượng tên Nguyễn Hoàng H và D (không rỏ nhân thân lai lịch) để hỏi mua ma túy sử dụng và bán lại kiếm lời. Đến ngày 02/01/2020 Nguyễn Thanh L, Lai Minh T, Trần Thị Mỹ N điện thoại cho M hỏi mua ma túy thì M đồng ý bán và hẹn khi nào có ma túy M sẽ cho hay. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày M liên hệ với các đối tượng trên lại nhà của M trú tại ấp PL, xã MB B, huyện CT, tỉnh KG để lấy ma túy thì tất cả đồng ý. Sau khi nghe điện thoại xong L nhờ Huỳnh Huy H1 đến nhà M lấy ma túy dùm L, khi đến nơi M bán cho T và N 01 bịt ma túy với giá 300.000 đồng và bán cho H1 01 bịt ma túy với giá 130.000 đồng. Khi tất cả vừa trao đổi mua bán ma túy xong thì bị Công an phát hiện và bắt quả tang, thu giữ 03 bịch ma tuý loại Methaphetamine, trọng lượng là 1,2607 gam, 01 điện thoại di động và số tiền 430.000 đồng, ngoài ra trong quá trình điều tra M còn khai nhận trước ngày bị bắt quả tang M còn 01 lần bán ma túy cho Lê Ngọc T với số tiền 100.000 đồng và bán bán ma túy cho L được 01 lần với số tiền 200.000 đồng. Đối chiếu theo quy định tại khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự thì “Phạm tội trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

...........

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Đối với 02 người trở lên;

...........

Như vậy, hành vi nhiều lần bán ma túy (loại Methamphetamine) cho nhiều đối tượng của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết tăng nặng định khung là phạm tội 02 lần trở lên và đối với 02 người trở lên được quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền về ma túy của Nhà nước mà còn làm băng hoại giống nồi thanh thiếu niên trong tầng lớp xã hội hiện nay và đây cũng là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tệ nạn khác trong xã hội như trộm cắp, cướp của, giết người ... gây bất ổn cho người dân sinh sống tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Bản thân bị cáo đã nhận thức được việc mua bán trái phép ma túy là hành vi mà pháp luật đặc biệt nghiêm cấm và sẽ xử lý nghiêm cho những ai cố ý vi phạm. Thế nhưng chỉ vì nghiện ngập và động cơ vụ lợi bị cáo đã bất chấp pháp luật cố ý liên hệ với hai đối tượng tên H và D hỏi mua ma túy đem về sử dụng và bán lại kiếm lời. Trong vụ án này cho thấy, chỉ trong khoảng thời gian ngắn từ cuối tháng 12/2019 cho đến ngày bị bắt quả tang ngày 02/01/2020 bị cáo đã liên tiếp nhiều lần bán ma túy cho L, T, N, H1 và T thu lợi bất chính cho bản thân với số tiền 730.000 đồng. Nếu bị cáo biết tôn trọng pháp luật, sống có trách nhiệm với bản thân và không tham lam vụ lợi thì hôm nay không phải chịu sự nghiêm trị của pháp luật. Với hành vi phạm tội của bị cáo, HĐXX nghị án thảo luận cần có mức án nghiêm và cần tách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục đồng thời qua đó phần nào giảm bớt loại tội phạm này trong xã hội.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng được quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, qua hồ sơ thể hiện thì vào năm 2016 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang xử phạt 02 năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tuy đã được xóa án tích nhưng qua đây cần xem xét về nhân thân bị cáo khi lượng hình mới là thỏa đáng.

[4] Xét về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên Tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội bị cáo đã tự thú về hành vi phạm tội của bị cáo nên cần xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên HĐXX sẽ áp dụng thêm khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để xem xét hình phạt cho bị cáo khi lượng hình là phù hợp.

[5] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về việc định tội danh, khung hình phạt cũng như việc áp dụng các điều luật để xử lý vụ án là có căn cứ pháp luật nên HĐXX ghi nhận để xem xét.

[6] Về đánh giá vật chứng, xử lý vật chứng:

6.1 Đối với 01 phong bì màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, Niêm phong mẫu vật, vụ số 03/2020 Mẫu 01, ngày 06 tháng 01 năm 2020, người chứng kiến Lê Văn L, giám định viên Nguyễn Hoàng N, có đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh KG; 01 chiếc hộp màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, Niêm phong mẫu vật, vụ số 03/2020 Mẫu 02, ngày 06 tháng 01 năm 2020, người chứng kiến Lê Văn L, giám định viên Nguyễn Hoàng N, có đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh KG; 01 phong bì màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, Niêm phong mẫu vật, vụ số 03/2020 Mẫu 03, ngày 06 tháng 01 năm 2020, người chứng kiến Lê Văn L, giám định viên Nguyễn Hoàng N, có đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh KG, đây là vật chứng đã thu giữ trong vụ án và là vật cấm tàng trữ và lưu hành nên cần xử tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

6.2 Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng, Model: 6300 có dòng số 356415/02/17625312 đã qua sữ dụng, không kiểm tra tình trạng hoạt động bên trong đang bị thu giữ trong vụ án cùng với số tiền 430.000 đồng đây là tiền bán ma túy có được. Xét thấy các tài sản trên dùng vào việc phạm tội và thu lợi bất chính mà có nên cần xử tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước là phù hợp.

6.3 Đối với số tiền 300.000 đồng đây là tiền thu lợi bất chính từ việc bị cáo bán ma túy cho T và L nên cần buộc bị cáo nộp lại để sung vào Ngân sách Nhà nước là phù hợp.

[7] Về án phí: Xử buộc bị cáo phải có nghĩa vụ nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 54 và Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 03 (ba) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày 02/01/2020.

Về biện pháp tư pháp áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, Niêm phong mẫu vật, vụ số 03/2020 Mẫu 01, ngày 06 tháng 01 năm 2020, người chứng kiến Lê Văn L, giám định viên Nguyễn Hoàng N, có đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh KG; 01 chiếc hộp màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, Niêm phong mẫu vật, vụ số 03/2020 Mẫu 02, ngày 06 tháng 01 năm 2020, người chứng kiến Lê Văn L, giám định viên Nguyễn Hoàng N, có đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh KG; 01 phong bì màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, Niêm phong mẫu vật, vụ số 03/2020 Mẫu 03, ngày 06 tháng 01 năm 2020, người chứng kiến Lê Văn L, giám định viên Nguyễn Hoàng N, có đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh KG.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước số tiền 430.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng, Model: 6300 có dòng số 356415/02/17625312 đã qua sữ dụng, không kiểm tra tình trạng hoạt động bên trong.

- Buộc bị cáo Nguyễn Văn M phải nộp lại số tiền 300.000 đồng để sung vào Ngân sách Nhà nước.

Vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện CT đang quản lý theo quyết định chuyển giao vật chứng số: 13/QĐ-VKSCT ngày 21/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CT, tỉnh Kiên G.

Về áp phí áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Xử buộc bị cáo Nguyễn Văn M phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 26/2020/HSST ngày 27/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;