Bản án 26/2020/HS-ST ngày 07/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂY SƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 26/2020/HS-ST NGÀY 07/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 07 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 31/2020/TLST- HS ngày 18 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Kim P, sinh năm 1959; nơi cư trú: thôn A, xã T, huyện T, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: làm nông; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần B (đã chết) và bà Lê Thị T, sinh năm 1925; vợ: Hà Thị X, sinh năm 1968; con: 02 người, lớn sinh năm 1985, nhỏ sinh năm 1989; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: tốt; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

Nguyễn Văn H, sinh năm 1969;

Trú tại: thôn A, xã T, huyện T, tỉnh Bình Định (có mặt).

- Người làm chứng:

+ Lê Thanh N, sinh năm 2006 (có mặt);

Người giám hộ: Lê Văn N, sinh năm 1980 (vắng mặt) và bà Hà Thị X, sinh năm 1968 (có mặt);

+ Trần Ngọc Q, sinh năm 1989 (có mặt);

+ Hà Thị X, sinh năm 1968 (có mặt);

Đng trú tại: thôn A, xã T, huyện T, tỉnh Bình Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 14 giờ ngày 07/3/2020, Trần Kim P (sinh năm 1959, thôn A, xã T, huyện T, tỉnh Bình Định) điều khiển xe mô tô từ nhà đến cây xăng “BL” (ở thôn N, xã T, huyện T, tỉnh Bình Định) để đổ xăng. Khi đi ngang qua nhà ông Nguyễn Văn H (sinh năm 1969, ở thôn A, xã T, huyện T, tỉnh Bình Định), P gặp ông H đang đi bộ trên đường bê tông trước nhà, ông H rủ P đến nhà mình chơi, P đồng ý. Sau đó, P tiếp tục điều khiển xe mô tô đi đổ xăng rồi quay lại nhà ông H. Khi đến nhà ông H, P dựng xe mô tô trước sân nhà, thấy các cửa trước nhà đều đóng nên đi vòng ra phía sau nhà, đến vị trí cửa ra vào ngôi nhà ở phía đông nam phòng bếp, thấy cửa này khép hờ, không khóa nên đẩy vào gọi “Ông T ơi”(T là tên thường gọi của ông H) nhưng không ai trả lời. P đi vào trong, nhìn sang cửa sổ du lịch kích thước (0,75 x 0,95)m, cao cách nền 0,55m, nằm giữa phòng khách và phòng bếp thì thấy trên bệ cửa sổ có 01 điện thoại di động hiệu OPPO A9 2020, màu xanh, có ốp lưng bằng nhựa dẻo màu trắng trong. P quan sát xung quanh không thấy ai nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. P cầm điện thoại bỏ vào túi trước bên phải quần short đang mặc rồi khép cửa phòng bếp lại, ra trước nhà, điều khiển xe mô tô đi về nhà. Về đến nhà, P đưa điện thoại cho cháu ngoại là Lê Thanh N (sinh ngày 30/3/2006, sống chung nhà) và nói cho N biết điện thoại này P mới trộm được ở nhà ông H. Lê Thanh N tháo 02 thẻ sim trong điện thoại vứt bỏ, bấm ngẫu nhiên mật khẩu thì tìm ra mật khẩu điện thoại là “123456”, đổi sang mật khẩu mới là “000000”, sau đó cùng P sử dụng.

Đến khoảng 17 giờ ngày 17/3/2020, P đến một cửa hàng điện thoại di động ở phường Đ, thị xã A, mua 01 sim điện thoại số 0989257325, 01 ốp lưng bằng nhựa dẻo màu đen xám gắn vào điện thoại. Khoảng cuối tháng 3/2020 (không rõ ngày cụ thể), khi đang ăn cơm tối cùng vợ là bà Hà Thị X (sinh năm 1968), N và con trai là Trần Ngọc Q (sinh năm 1989, sống chung nhà), X và Q hỏi P về điện thoại trên, P đã kể việc trộm cắp điện thoại cho X, Q biết. Sau đó, X, Q để mặc P tiếp tục sử dụng.

Đến sáng ngày 04/4/2020, chị Nguyễn Thị Thu S (sinh năm 1991, ở Lê Thanh N, con ruột ông H) sử dụng điện thoại của mình đăng nhập vào tài khoản Gmail của ông H thì phát hiện tài khoản có tên hiển thị là “Lê Thanh N”, nghi ngờ P đã lấy trộm điện thoại trên nên chị S cùng ông H báo cáo cho Cơ quan điều tra. Tại Cơ quan điều tra, P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Ngày 05/5/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tây Sơn kết luận tại thời điểm bị chiếm đoạt, điện thoại di động OPPO A9 2020, màu xanh, 128GB, số Imei 1: 860028040584112, số Imei 2: 860028040584104 có giá trị là 5.491.000 đồng.

Tang vật vụ án, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tây Sơn đã thu giữ gồm:

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO A9 2020, màu xanh, 128GB, số Imei 1: 860028040584112, số Imei 2: 860028040584104 và 01 ốp lưng điện thoại bằng nhựa dẻo, màu trắng trong; đã trả lại cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Văn H;

- 01 ốp lưng điện thoại bằng nhựa dẻo, màu đen xám;

- 01 sim điện thoại có số thuê bao 0989257325.

Riêng 02 thẻ sim gắn trong điện thoại OPPO bị N vứt bỏ vào sọt rác, bị xe chở rác thu gom đi đổ nên không thu giữ được.

Quá trình điều tra, bị hại Nguyễn Văn H có đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Trần Kim P.

Tại Bản cáo trạng số 27/CT – VKSTS ngày 11/8/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn đã truy tố bị cáo Trần Kim P về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội nêu trên.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Kim P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 65 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Kim P từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách theo quy định của pháp luật.

- Về bồi thường thiệt hại: Tài sản trộm cắp đã thu hồi trả lại cho bị hại, bị hại không yêu cầu bồi thường gì nên miễn xét.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) ốp lưng điện thoại bằng nhựa dẻo màu đen xám; 01 (một) thẻ sim điện thoại số thuê bao “0989257325”.

Đi với Lê Thanh N (cháu ngoại bị cáo P) biết rõ là điện thoại do P trộm cắp mà có và cùng P sử dụng cho đến khi bị phát hiện. Tuy nhiên, tại thời điểm trên N chưa đủ 16 tuổi nên không bị xử lý về hành vi “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Đi với Hà Thị X và Trần Ngọc Q đều biết rõ hành vi trộm cắp của bị cáo P nhưng không tố giác tội phạm, không cùng sử dụng hay che giấu việc bị cáo P trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, X, Q là vợ và con ruột của bị can P, căn cứ Điều 19 và Điều 390 của Bộ luật hình sự, X và Q không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi không tố giác tội phạm.

Bị cáo, người bị hại không có ý kiến tranh luận về quan điểm luận tội cũng như đề nghị giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tây Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, thể hiện:

Khong 14 giờ ngày 07/3/2020, tại nhà ở của ông Nguyễn Văn H ở thôn A, xã T, huyện T, tỉnh Bình Định, bị cáo Trần Kim P lợi dụng sơ hở của người khác trong việc quản lý tài sản nên đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của ông Nguyễn Văn H 01 chiếc điện thoại di động hiệu OPPO A9 2020 có giá trị 5.491.000 đồng. Hành vi của bị cáo Trần Kim P phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn truy tố là có căn cứ.

[3] Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm trực tiếp đến tài sản của người khác một cách trái pháp luật mà còn gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang cho quần chúng nhân dân trên địa bàn. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, ý thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng khi vào nhà bị hại Nguyễn Văn H thăm chơi, phát hiện 01 điện thoại di động hiệu OPPO A9 2020 của ông H để trên cửa sổ du lịch không có người trông coi nên đã lén lút chiếm đoạt điện thoại di động có giá trị là 5.491.000 đồng. Bị cáo thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm khắc của khung hình phạt mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản trộm cắp đã trả lại cho người bị hại và tại phiên tòa người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Ngoài ra, bị cáo là người cao tuổi, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung như đề nghị của vị Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa.

[6] Về bồi thường thiệt hại: Tài sản trộm cắp đã trả lại cho người bị hại và người bị hại không yêu cầu bồi thường gì nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: 01 (một) ốp lưng điện thoại bằng nhựa dẻo màu đen xám; 01 (một) thẻ sim điện thoại số thuê bao “0989257325” là tang vật vụ án, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/8/2020 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tây Sơn và Công an huyện Tây Sơn).

[8] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Trần Kim P là người cao tuổi nên được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Kim P phạm tội trộm cắp tài sản.

* Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 65 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Trần Kim P 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 07/9/2020).

Giao bị cáo Trần Kim P cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Bình Định quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo Trần Kim P thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự năm 2019.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

* Về bồi thường thiệt hại: Người bị hại không yêu cầu bồi thường gì nên Hội đồng xét xử miễn xét.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

Tch thu tiêu hủy: 01 (một) ốp lưng điện thoại bằng nhựa dẻo màu đen xám; 01 (một) thẻ sim điện thoại số thuê bao “0989257325” (đã niêm phong).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/8/2020 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tây Sơn và Công an huyện Tây Sơn).

* Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Kim P là người cao tuổi nên được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo và các đương sự biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 26/2020/HS-ST ngày 07/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:26/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tây Sơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;