Bản án 26/2020/HNGĐ-ST ngày 23/07/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 26/2020/HNGĐ-ST NGÀY 23/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 23 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã T tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 35/2020/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 3 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 15/6/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 21/2020/QĐST-HNGĐ ngày 03/7/2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim O, sinh năm 1988; nơi thường trú: Số 25, tổ 6, ấp H, xã T, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai; tạm trú: Nhà trọ P, tổ 1, khu phố A, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; có đơn xin vắng mặt;

- Bị đơn: Ông Hồ Lê Q, sinh năm 1990; nơi thường trú: Ấp P, xã L, xã L, huyện V, tỉnh Bạc Liêu; tạm trú: Nhà trọ P, tổ 1, khu phố A, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim O trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim O và ông Hồ Lê Q có thời gian tìm hiểu nhau thì tiến tới hôn nhân, vợ chồng có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 114/2010, quyển số 01/2010 ngày 10/12/2010. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng thời gian gần đây thì thường xuyên xảy ra mâu thuẫn.

Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi vả, ông Q hay đánh đập vợ. Hiện tại, vợ chồng đã ly thân. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, bà Nguyễn Thị Kim O yêu cầu được ly hôn với ông Hồ Lê Q.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Hồ Ngọc Như Y, sinh ngày 22/6/2011 và Hồ Ngọc Trúc Q1, sinh ngày 08/01/2019. Sau khi ly hôn, bà O yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con và yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi mỗi con chung 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi các con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị Kim O tự nguyện không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Vì lý do bận công việc, không có thời gian tham gia tố tụng nên bà Nguyễn Thị Kim O có đơn đề nghị Toà án xét xử vụ án vắng mặt.

Bị đơn ông Hồ Lê Q đã được Tòa án nhân dân thị xã T triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng ông Tùng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng.

Theo kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương về mâu thuẫn vợ chồng của bà Nguyễn Thị Kim O và ông Hồ Lê Q thì chính quyền địa phương không rõ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm như sau:

- Về thủ tục tố tung: Tòa án nhân dân thị xã T thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Đối với việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng các đương sự đã thực hiện đúng quy định. Đại diện Viện kiểm sát không có yêu cầu và kiến nghị để khắc phục vi phạm tố tụng.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim O.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án hôn nhân và gia đình mà bị đơn cư trú tại thị xã T và nguyên đơn đề nghị Tòa án nhân dân thị xã T giải quyết. Căn cứ vào Điều 28, 35 va 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã T.

[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim O có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn ông Hồ Lê Q được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành thủ tục xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 227 và 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim O và ông Hồ Lê Q có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 114/2010, quyển số 01/2010 ngày 10/12/2010, là hôn nhân hợp pháp.

Bà Nguyễn Thị Kim O xác định mâu thuẫn vợ chồng bắt đầu từ khoảng năm 2017-2018 đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn theo bà O là do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi vả, ông Q hay đánh đập vợ, hiện tại vợ chồng đã sống ly thân, các bên không đưa ra được biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hội đồng xét xử xét thấy: Theo quy định tại Điều 17 và 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: “ Vợ chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Do đó, việc chung sống giữa bà O và ông Q không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được.

Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu ly hôn của nguyên đơn có căn cứ, phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Hồ Ngọc Như Y, sinh ngày 22/6/2011 và Hồ Ngọc Trúc Q1, sinh ngày 08/01/2019. Sau khi ly hôn, bà O yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con. Tại bản tự khai, cháu Như Y có nguyện vọng được sống chung với bà O, cháu Trúc Q1 hiện nay chưa đủ 36 tháng tuổi. Xét thấy, hiện các con đang sống chung với bà O, bà O có đầy đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận giao 02 con cho bà O được trực tiếp nuôi dưỡng.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà O yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi mỗi con chung 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi 02 con đủ 18 tuổi. Xét yêu cầu của bà O là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp.

[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con:

Các đương sự phải chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 269, Điều 271, Điều 273 và Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim O về việc tranh chấp ly hôn và nuôi con với bị đơn ông Hồ Lê Q như sau:

- Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim O được ly hôn với ông Hồ Lê Q.

- Về con chung: Giao 02 con chung tên Hồ Ngọc Như Y, sinh ngày 22/6/2011 và Hồ Ngọc Trúc Q1, sinh ngày 08/01/2019 cho bà Nguyễn Thị Kim O được trực tiếp nuôi dưỡng.

Bà Nguyễn Thị Kim O và ông Hồ Lê Q đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người đang trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Ông Hồ Lê Q có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi mỗi con chung 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi 02 con đủ 18 tuổi.

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án nộp đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thanh toán xong thì còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm thanh toán, tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự cho đến khi thi hành án xong.

- Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Kim O phải chịu 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0037751 ngày 11/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh Bình Dương.

3. Về án phí cấp dưỡng nuôi con: Ông Hồ Lê Q phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

4. Các đương sự vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 26/2020/HNGĐ-ST ngày 23/07/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:26/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;