Bản án 26/2020/HNGĐ-ST ngày 15/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂY SƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 26/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tây Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 137/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2020 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2020/QĐST- HNGĐ ngày 06 tháng 8 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2020/QĐST- HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phan Thị L - Sinh năm: 1984 Địa chỉ: Xóm 2, TTT, xã BN, huyện TS, tỉnh Bình Định

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn C - Sinh năm: 1978 Địa chỉ: Thôn NT, xã TV, huyện TS, tỉnh Bình Định.

Chị L có mặt tại phiên tòa, anh C vắng mặt lần 2 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Phan Thị L trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn C kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã BN, huyện TS tỉnh Bình Định vào ngày 28/11/2008. Sau cưới vợ chồng sống tại nhà cha mẹ chị ở xóm 2, thôn TTT, xã BN, huyện Tây Sơn, vợ chồng sống đến năm 2016 thì anh C về nhà cha mẹ anh ở thôn NT, xã TV, huyện TS, anh C thường xuyên uống rượu rồi về nhà chị quậy phá vợ con, anh C không có trách nhiệm làm chồng, làm cha, nên vợ chồng từ đó dẫn đến mâu thuẫn, anh C luôn có những lời lẽ xúc phạm chị và đánh con. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn C.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Thị Thu N (giới tính: Nữ) – sinh ngày: 06/12/2009; Nguyễn Văn H (giới tính: Nam) – sinh ngày:

05/12/2011, các con lâu nay ở với chị. Ly hôn cháu N, cháu H có nguyện vọng ở với chị thì chị yêu cầu được nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không yêu cầu anh C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn anh Nguyễn Văn C vắng mặt không có lý do: Về các thủ tục về giải quyết ly hôn đã được Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn niêm yết hợp lệ nhưng anh Nguyễn Văn C vẫn vắng mặt không có lý do. Như vậy anh C không xem trọng cuộc hôn nhân giữa anh C và chị L. Nên Tòa án xem xét vẫn tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn phát biểu việc tuân thủ pháp luật về tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

- Thẩm phán đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm xét xử sơ thẩm. Tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán và Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa tuân thủ đúng theo qui định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại các điều 70, 71 (Bộ luật tố tụng) BLTT Dân sự 2015. Bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ được quy định tại các điều 70, 72 BLTT Dân sự 2015.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ Điều 147, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị L, cho chị L được ly hôn anh Nguyễn Văn C. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Thu N (giới tính: Nữ) – sinh ngày: 06/12/2009 và Nguyễn Văn H (giới tính: Nam) – sinh ngày: 05/12/2011 cho chị L nuôi dưỡng, vì nguyện vọng của các cháu muốn ở với chị L, anh C không phải cấp dưỡng nuôi con vì chị L không yêu cầu. Án phí hôn nhân sơ thẩm đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Phan Thị L có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn giải quyết vụ án hôn nhân của chị. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn.

Về sự vắng mặt của bị đơn. Anh Nguyễn Văn C đã được Tòa án niêm yết hợp lệ đến lần hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa và không có lý do, căn cứ quy định tại các điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh C.

[2] Về nội dung giải quyết vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thị L và anh Nguyễn Văn C kết hôn vào ngày 28/11/2008 trên cơ sở tìm hiểu, tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B N, huyện TS, tỉnh Bình Định nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Sau cưới vợ chồng sống tại nhà cha mẹ chị L ở xóm 2, thôn TTT, xã BN, huyện TS, vợ chồng sống đến năm 2016 thì anh C về sống tại nhà cha mẹ anh ở thôn NT, xã TV, huyện T S anh C thường uống rượu rồi về nhà chị L quậy phá vợ con, anh C không có trách nhiệm làm chồng, làm cha, nên vợ chồng từ đó dẫn đến mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn như chị L trình bày, anh C có những lời lẽ xúc phạm chị và đánh con, không quan tâm đến gia đình, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2016 đến nay. Chị L xác định không còn tình cảm với anh C nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn C.

Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn đã tiến hành xác minh thu thập chứng cứ, tại biên bản xác minh ngày 15/7/2020 của xã Bình Nghi thể hiện nội dung tình trạng hôn nhân, con chung của chị L và anh C đúng như chị L đã trình bày và biên bản xác minh ngày 31/7/2020 của UBND xã Tây Vinh hiện anh C đang sinh sống tại địa phương, đang làm nghề thợ vôi vẫn đi về địa phương bình thường, nguyên nhân mâu thuẫn anh C thường xuyên uống rượu và nhà quậy phá nên vợ chồng kình cãi. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh C không còn tồn tại, mỗi người sống một nơi, không ai quan tâm đến ai. Việc anh C không đến Tòa án làm việc, không có quan điểm gửi đến Tòa án chứng tỏ anh C không có trách nhiệm với hôn nhân của chính mình. Tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh C đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Phan Thị L.

[2.2] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Thị Thu N (giới tính: Nữ) – sinh ngày: 06/12/2009 và Nguyễn Văn H (giới tính: Nam) – sinh ngày:

05/12/2011, các con lâu nay ở với chị L, cháu N và H có nguyện vọng ở với mẹ (chị L). Xét thấy cháu N và cháu H đã trên 07 tuổi, cả hai cháu đều có nguyện vọng ở với mẹ là chị L, chị L yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu N và H đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Do đó, HĐXX giao cháu Ngân và Hoàng cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp, anh C không phải cấp dưỡng nuôi con vì chị L không yêu cầu nên Tòa không xét.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị L không yêu cầu Tòa giải quyết nên không xét.

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, và khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Phan Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0006660 ngày 06/5/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tây Sơn, chị L đã nộp xong.

[4] Lời phát biểu ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của HĐXX.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015:

- Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:

- Áp dụng khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thị L được ly hôn anh Nguyễn Văn C.

2. Về con chung: Chị Phan Thị L được nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị Thu N (giới tính: Nữ) – sinh ngày: 06/12/2009 và Nguyễn Văn H (giới tính: Nam) – sinh ngày: 05/12/2011.

Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu, Tòa không giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, nhưng nếu lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc nuôi con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu, Tòa không giải quyết.

4. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Phan Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0006660 ngày 06/5/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tây Sơn.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 15/9/2020), bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 26/2020/HNGĐ-ST ngày 15/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:26/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tây Sơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;