TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 26/2018/DS-ST NGÀY 07/06/2018 VỀ ĐÒI BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TÀI SẢN
Trong ngày 07 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thới Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 240/2017/TLST-DS ngày 21 tháng 8 năm 2017 về “Đòi bồi thường thiệt hại về tài sản”
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2018/QĐXXST-DS ngày 27 tháng4 năm 2018, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Bùi Thị Cẩm T, sinh năm 1988 (có mặt)
Địa chỉ: Ấp B, xã P, huyện P, tỉnh Bạc Liêu
Chỗ ở hiện nay: Ấp B1, xã P, huyện P, tỉnh Bạc Liêu
2. Bị đơn:
2.1. Ông Lê Tấn L, sinh năm 1987 (có mặt)
2.2. Bà Lê Thị Kim C (vợ ông L, có mặt), sinh năm 1992
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Bùi Văn B, sinh năm 1990 (có mặt)
Cùng địa chỉ: Ấp B1, xã P, huyện P, tỉnh Bạc Liêu
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện ngày 18/8/2017 và quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn là bà Bùi Thị Cẩm T trình bày:
Vào khoảng 11 giờ ngày 04/02/2017, bà T có cho em ruột là Bùi Văn B mượn 01 chiếc xe mô tô hiệu Sirius biển số 94P1-2153 để đi chơi. Sau đó, B chạy xe đến quán của ông Giúp Tộc xã Tân Phú, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau để uống nước. Ông Lê Tấn L và vợ là bà Lê Thị Kim C tìm gặp B để đòi tiền nợ. Sau đó, vợ chồng ông L đã ngang nhiên lấy chiếc xe mô tô nói trên đem về nhà. Bà T có gặp vợ chồng ông L xuất trình giấy đăng ký xe cho vợ chồng ông L xem để nhận xe nhưng vợ chồng ông L không đồng ý. Vợ chồng ông L giữ xe 20 ngày mới đem giao nộp cho Công an huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau quản lý đến nay.
Nay bà T yêu cầu vợ chồng ông L phải bồi thường phần mất thu nhập trong 19 ngày là 7.600.000 đồng. Đồng thời, khi nhận lại xe, nếu xe còn như lúc mới bị giữ trái phép, thì bà T nhận xe, nếu xe bị hư hỏng hay xuống cấp thì vợ chồng ông L phải bồi thường xe khác cho bà T.
* Quá trình tham gia tố tụng, bị đơn là ông Lê Tấn L và vợ là bà Lê Thị Kim C (gọi chung là vợ chồng ông L) trình bày:
Ông Bùi Văn B có vay của vợ chồng ông L một khoản tiền. Do đòi nhiều lần nhưng ông B không thanh toán. Vào ngày 04/02/2017, vợ chồng ông L gặp ông B để đòi nợ. Do ông B không có tiền thanh toán nên ông B đã giao chìa khóa chiếc xe mô tô hiệu Sirius biển số 94P1-2153 cho vợ chồng ông L giữ, khi nào có tiền trả thì nhận lại xe. Vào thời điểm nhận xe, vợ chồng ông L không biết chiếc xe Tộc quyền sở hữu của ai. Khi bà T yêu cầu trả xe, ông L không đồng ý và nói nếu xác minh xe của bà T thì ông L sẽ trả lại. Khoảng 19 ngày sau, bà T đưa giấy chứng nhận đăng ký xe đứng tên bà T, thì ngày hôm sau, ông L giao xe cho Công an huyện Thới Bình để giao trả cho bà T.
Trước yêu cầu của bà T đưa ra, vợ chồng ông L không đồng ý bồi thường do ông B tự nguyện giao xe cho vợ chồng ông L quản lý và khi nhận xe, vợ chồng ông L không biết xe thuộc quyền sở hữu của bà T.
* Quá trình tham gia tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Bùi Văn B trình bày:
Ông B thừa nhận có nợ của ông L 6.000.000 đồng. Khoảng 11 giờ ngày 04/02/2017, ông B đậu xe và để chìa khóa xe trên xe tại nhà ông G thuộc xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau. Sau đó, ông B đến trường gà cách nhà ông G 01km, thì vợ chồng ông L có đến gặp ông B yêu cầu trả nợ. Ông B có đưa cho vợ chồng ông L 1.300.000 đồng nhưng vợ chồng ông L không nhận. Sau đó, ông L nói lấy xe của ông B nhưng ông B không đồng ý giao xe do xe ông B mượn của bà T. Khoảng 10 phút sau, ông B quay về nhà ông G lấy xe thì phát hiện vợ chồng ông L đã lấy xe. Ông B gọi điện báo cho bà T hay và bà T có báo Công an lập biên bản. Khi Công an đến thì vợ chồng ông L không giao xe và giữ xe đến khoảng 20 ngày mới giao xe cho Công an huyện Thới Bình.
Tại phiên tòa hôm nay:
- Bà T trình bày: Trường hợp bán tạp hóa mà lượng hàng hóa bán ra có giá trị 300.000 đồng/ngày, thì thu nhập đạt khoảng 20.000 đồng. Trong thời gian bán tạp hóa, thì có cán bộ ấp và xã đến nhà hỏi thăm việc buôn bán. Bà T không biết họ có ghi chép sổ sách gì hay không.
- Vợ chồng ông L trình bày: Việc giao chiếc xe mô tô hiệu Sirius biển số 94P1-2153 cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thới Bình vào ngày 23/02/2017 là thực hiện theo yêu cầu của phía Công an. Việc bà T bán tạp hóa có thu nhập thực tế thấp hơn nhiều so với mức mà bà yêu cầu.
- Phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên:
+ Phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự: thực hiện đúng các quy định của tố tụng dân sự;
+ Phát biểu về việc giải quyết vụ án:
Áp dụng các điều 584, 585, 589 của Bộ luật dân sự; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, chấp nhận 01 phần yêu cầu của bà T, buộc vợ chồng ông L phải bồi thường cho bà T tổng số tiền mất thu nhập trong 19 ngày là 253.000 đồng; không chấp nhận yêu cầu của bà T về bồi thường đối với chiếc xe mô tô; vợ chồng ông L phải chịu án phí có giá ngạch, bà T phải chịu án phí đối với phần không được chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Yêu cầu của nguyên đơn là bà T thuộc trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Sự việc xảy ra tại ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau. Theo đó, bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Thới Bình giải quyết tranh chấp là đúng quy định tại điểm d khoản 1 Điều 40 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Phát biểu của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự là đúng, phù hợp với quy định của tố tụng dân sự.
[3] Theo các tài liệu có trong hồ sơ (bút lục số 32-34) xác định bà T là chủ sở hữu chiếc xe mô tô hiệu Sirius biển số 94P1-2153. Vợ chồng ông L giữ chiếc xe này vào ngày 04/02/2017 cho đến ngày 23/02/2017, vợ chồng ông L mới giao chiếc xe và giấy tờ liên quan cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thới Bình. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thới Bình đã ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự số 17 ngày 20/4/2017 (bút lục số 108). Ông B đã khiếu nại và được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thới Bình giải quyết tại Quyết định số 02/QĐ-CSĐT ngày15/5/2017. Tuy nhiên, tại thời điểm vợ chồng ông L giữ xe có cơ sở xác định không có sự đồng ý của bà T hoặc của ông B (người được bà T giao trực tiếp quản lý chiếc xe) là xâm phạm quyền của chủ sở hữu. Chiếc xe là phương tiện tạo thu nhập hàng ngày cho gia đình bà T, nên vợ chồng ông L phải bồi thường thiệt hại trong thời gian chiếm hữu chiếc xe là 19 ngày. Mặc dù, phía bà T xác định phần mất thu nhập là 400.000 đồng/ngày, nhưng quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bà không cung cấp được hóa đơn, chứng từ chứng minh khoản thiệt hại nên không được chấp nhận. Qua xác minh, xác định được, thu nhập trung bình của bà T từ việc buôn bán tạp hóa là 20.000 đồng/ngày. Thời điểm bị vợ chồng ông L giữ xe là vào dịp tết, thu nhập của gia đình bà T tăng gấp đôi (tương ứng với số tiền 40.000 đồng/ngày), do không có phương tiện đi giao hàng, nên thu nhập chỉ đạt 2/3, bị giảm sút 1/3. Vì vậy, yêu cầu của bà T về việc đòi bồi thường thu nhập chỉ được chấp nhận 01 phần, buộc vợ chồng ông L liên đới bồi thường phần thu nhập bị giảm sút cho bà T là: (40.000 đồng : 3) x 19 ngày = 253.000 đồng (tính tròn số). Trong đó, phần bồi thường của mỗi người là bằng nhau tương ứng với số tiền 126.500 đồng. Trường hợp chậm thanh toán khoản tiền này, vợ chồng ông L còn phải chịu khoản tiền lãi theo quy định.
[4] Đối với chiếc xe mô tô hiệu Sirius biển số 94P1-2153 hiện do cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thới Bình quản lý (bút lục số 36, 120-122). Vì bà T không nhận xe (bút lục số 46-47, 117), thiệt hại thực tế chưa phát sinh, nên yêu cầu của bà T về việc “khi nhận lại xe, nếu xe còn như lúc mới bị giữ trái phép, thì bà T nhận xe, nếu xe bị hư hỏng hay xuống cấp, thì vợ chồng ông L phải bồi thường xe khác” không được chấp nhận. Trường hợp chứng minh được thiệt hại thực tế đối với chiếc xe mô tô hiệu Sirius biển số 94P1-2153, thì bà T được quyền khởi kiện vợ chồng ông L tại vụ án khác.
[5] Với các cơ sở như trên, thì ý kiến của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa được chấp nhận.
[6] Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận một phần, nên vợ chồng ông L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch tương ứng với phần yêu cầu của bà T được Tòa án chấp nhận. Bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch 5% (đối với khoản tiền không được chấp nhận là 7.347.000 đồng (7.600.000 đồng - 253.000 đồng) và án phí không có giá ngạch (đối với yêu cầu liên quan đến chiếc xe mô tô).
[7] Các đương sự đều có mặt tại phiên tòa, nên thời hạn kháng cáo tính kể từ ngày tuyên án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 587, 589 Bộ luật dân sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức T, miễn, giảm, T, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Buộc ông Lê Tấn L và vợ là bà Lê Thị Kim C liên đới bồi thường phần thu nhập bị giảm sút cho bà Bùi Thị Cẩm T 253.000 đồng (hai trăm năm mươi ba ngàn đồng). Trong đó, phần của ông L phải bồi thường là 126.500 đồng (một trăm hai mươi sáu ngàn năm trăm đồng), phần của bà C phải bồi thường là 126.500 đồng (một trăm hai mươi sáu ngàn năm trăm đồng).
2. Không chấp nhận yêu cầu của bà Bùi Thị Cẩm T đòi ông L và bà C bồi thường phần thu nhập bị mất với số tiền là 7.347.000 đồng (bảy triệu ba trăm bốn mươi bảy ngàn đồng) và không chấp nhận phần yêu cầu của bà T về việc: “khi nhận lại xe, nếu xe còn như lúc mới bị giữ trái phép, thì bà T nhận xe, nếu xe bị hư hỏng hay xuống cấp, thì vợ chồng ông L phải bồi thường xe khác”.
3. Kể từ ngày bà T có đơn yêu cầu thi hành án. Trường hợp ông L và bà C không chịu thanh toán cho bà T khoản tiền bồi thường nói trên, thì hàng tháng, ông L và bà C còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
4. Ông L và bà C phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.
5. Bà T phải chịu 367.000 đồng (tính tròn số) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch. Tổng cộng, bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 667.000 đồng. Phần bà T tạm ứng án phí 300.0000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0018746 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình phát hành ngày 18/8/2017 được khấu trừ và phải nộp tiếp 367.000 đồng (ba trăm sáu mươi bảy ngàn đồng).
6. Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa Tận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 26/2018/DS-ST ngày 07/06/2018 về đòi bồi thường thiệt hại tài sản
Số hiệu: | 26/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 07/06/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về