TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN IA GRAI, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 26/2017/HSST NGÀY 29/06/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 6 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 19/2017/HSST ngày 23 tháng 5 năm 2017 đối với bị cáo:
Lê Thị Kim D; sinh ngày 15 tháng 3 năm 1987 tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn M, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 6/12; có cha là ông Lê Quang C sinh năm 1960, có mẹ là bà Trần Thị H sinh năm 1965; có chồng là anh Trương Văn T và có hai người con sinh ngày 27/12/2011 và ngày 16/8/2014.Ngày 10/12/2008, bị cáo cùng đồng bọn thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và ngày 27/4/2009 bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 16 tháng tù. Chấp hành án tại Trại giam K, huyện H, tỉnh Bình Định. Ngày 15/01/2010 chấp hành án phạt tù xong.
Ngày 17/7/2010, bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và ngày 11/11/2010 bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 20 tháng tù, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/7/2010 đến ngày 04/8/2010. Ngày 13/12/2010, Tòa án nhân dân huyện N đã ủy thác cho Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Quảng Ngãi ra quyết định thi hành án đối với bị cáo. Ngày 24/01/2011 và ngày 18/02/2014 bị cáo đang được Tòa án nhân dân huyện M
hoãn thi hành án do đang mang thai.
Ngày 14/02/2017 bị cáo bị tạm giữ, đến ngày 23/02/2017, được áp dụng biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh. Hiện bị can đang ở tại thôn M, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi. Tiền án: 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản; tiền sự: Không. Có mặt.
* Người bị hại: Anh Vũ Huy T; trú tại: đường T, phường I, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
NHẬN THẤY
Bị cáo Lê Thị Kim D bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai truy tố về hành vi phạm tội như sau: Lê Thị Kim D (sinh năm: 1987, chỗ ở: Thôn M, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi), là đối tượng đã có 02 tiền án về tội Trộm cắp tài sản, và hiện đang được cho Hoãn thi hành án phạt tù do nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi. Khoảng đầu tháng 02/2017, D lên khu vực xã I, huyện G, tỉnh Gia Lai chơi và có thuê phong trọ tại nhà của anh Nguyễn Quang N (thuộc làng K, xã I, huyện G). Khoảng 8 giờ 30 phút ngày 14/2/2017, D nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, nên đã đi bộ tìm xem có ai sơ hở thì trộm cắp, khi đi đến nhà nghỉ T (thuộc làng K, xã I, huyện G), thấy không có ai nên D đi vào trong nhà nghỉ, khi đi ngang qua phòng số 01 thì D thấy anh Vũ Huy T (sinh năm 1990, hộ khẩu thường trú: đường T, phường I, thành phố P, tỉnh Gia Lai) đang nằm ngủ trên giường, trên đầu gường có 01 cái điện thoại di động Iphone 5S 16GB màu bạc, nên D lén lút đi lại lấy trộm điện thoại trên và đi ra ngoài, lúc này anh T phát hiện D trộm điện thoại liền truy hô và đuổi theo, lúc đó có lực lượng Công an đang đi tuần tra nên đã cùng truy đuổi và bắt quả tang D, thu giữ trên người D 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5S 16GB màu bạc, số IMEL: 352086070020071 mà D trộm cắp của anh T.
Tại bản kết luận số 03 ngày 15/02/2017, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Ia Grai xác định điện thoại Iphone 5S 16GB màu bạc, số IMEL: 352086070020071 có giá trị 3.500.000 đồng (ba triệu năm trăm ngàn đồng).
Tại bản Cáo trạng số 24/CTr-VKS ngày 22 tháng 5 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Lê Thị Kim D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử: Bị cáo Lê Thị Kim D phạm tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138; điểm g, p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo từ 24 tháng đến 30 tháng tù.
Áp dụng Điều 51 tổng hợp hình phạt với bản án số 18/2010/HSST ngày 11/11/2010 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Quảng Ngãi mức án 19 tháng 12 ngày, buộc bị cáo Lê Thị Kim D phải chấp hành hình phạt chung từ 43 tháng 12 ngày tù đến 49 tháng 12 ngày tù, được trừ đi thời hạn tạm giữ 09 ngày (ngày 14/02/2017 đến ngày 23/02/2017), còn lại phải chấp hành từ 43 tháng 03 ngày tù đến 49 tháng 03 ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,
XÉT THẤY
Tài sản và quyền sở hữu của công dân luôn được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm trái phép đến tài sản và quyền sở hữu của công dân luôn bị pháp luật nghiêm trị. Tại phiên toà, bị cáo Lê Thị Kim D đã khai nhận về hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, về thời gian, địa điểm, diễn biến hành vi phạm tội đúng như nội D mà bản Cáo trạng đã nêu. Tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo khai do không có tiền tiêu xài nên bị cáo đã phạm tội. Đối chiếu lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay cùng lời khai của người bị hại và các tài liệu chứng cứ khác đã được thẩm tra tại phiên tòa thấy phù hợp. Đủ cơ sở để kết luận, bị cáo Lê Thị Kim D đã thực hiện việc trộm cắp tài sản là 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 5S 16GB màu bạc, số IMEL 352086070020071 của anh Vũ Huy T, có giá trị là 3.500.000 đồng. Tại thời điểm phạm tội bị cáo đã có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích nên hành vi của bị cáo đã phạm vào trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự. Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ia Grai đối với bị cáo Lê Thị Kim D theo tội danh và điều khoản luật nêu trên là có căn cứ.
Xét việc phạm tội của bị cáo Lê Thị Kim D không chỉ trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu của công dân vốn được pháp luật bảo vệ mà nó còn góp phần làm xấu hơn tình hình trật tự trị an trên địa bàn. Do vậy, hành vi phạm tội của bị cáo phải được xử lý theo quy định của pháp luật để không chỉ răn đe mà còn phòng ngừa chung đối với tội phạm.
Xét hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy rằng: Bị cáo đã từng có 02 tiền án, biết rõ hành vi mà bị cáo thực hiện trong vụ án này sẽ bị pháp luật nghiêm trị nhưng bị cáo vẫn tiếp tục việc phạm pháp. Để lấy được tài sản của người bị hại, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của người bị hại để thực hiện việc trộm cắp. Việc phạm tội của bị cáo thể hiện ý thức xem thường pháp luật, chủ động thực hiện việc phạm tội nên phải bị xử lý nghiêm để răn đe và đảm bảo tác dụng phòng ngừa.
Khi lượng hình, xét bị cáo có nhân thân xấu, không chịu cải tạo, phấn đấu thành người tốt. Tuy nhiên xét thấy tài sản trộm cắp có giá trị không lớn; bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có 02 con còn nhỏ, các tình tiết này sẽ được Hội đồng xét xử áp dụng theo đúng quy định của pháp luật để xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5S 16GB màu bạc, số IMEL 352086070020071 là tài sản của anh Vũ Huy T nên Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Ia Grai đã trả lại tài sản trên cho anh T là phù hợp.
Về bồi thường dân sự: Người bị hại là anh Vũ Huy T không có yêu cầu nên không xem xét.
Về xử lý vật chứng của vụ án đã xử lý xong nên không xem xét. Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lê Thị Kim D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Thị Kim D 24 (hai mươi bốn) tháng tù.
Tổng hợp hình phạt với phần hình phạt chưa chấp hành mà bị cáo phải thi hành đối với bản án số 18/2010/HSST ngày 11/11/2010 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Quảng Ngãi là 20 tháng tù được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/7/2010 đến ngày 04/8/2010 là 18 ngày, còn phải chấp hành hình phạt tù 19 tháng 12 ngày. Buộc bị cáo Lê Thị Kim D phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 43 tháng 12 ngày tù, được trừ đi thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/02/2017 đến ngày 23/02/2017. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
- Về án phí: Căn cứ Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự: Buộc bị cáo Lê Thị Kim D phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Đối với người bị hại vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn trên tính từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết./.
Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn