Bản án 260/2023/HS-ST về tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 260/2023/HS-ST NGÀY 26/09/2023 VỀ TỘI SỬ DỤNG CON DẤU HOẶC TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 26/09/2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 259/2023/TLST- HS ngày 12/09/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 263/QĐXXST-HS ngày 13/09/2023 đối với bị cáo:

Hoàng Phong Nam, sinh năm 2001; HKTT: Số 111 Phùng Hưng, phường Hàng Mã, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội; Nơi ở hiện tại: số 12 hồ Hạ Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, TP Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông: Hoàng Thanh Tùng, sinh năm 1972 và bà Lê Thị Thu Hà, sinh năm 1975; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.

Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 05/03/2022, Phòng An ninh chính trị nội bộ - Công an thành phố Hà Nội được giao nhiệm vụ giám sát kỳ thi cấp chứng chỉ tiếng anh B1, B2 tại trường đại học Hà Nội, địa chỉ tại Km 9 đường Nguyễn Trãi, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà Nội đã phát hiện Hoàng Phong N sử dụng giấy tờ (căn cước công dân, phiếu test covid) nghi là giả để thi thay cho Phạm Quang T (Sinh năm:

1991, HKTT: Hưng Đạo, Tứ Kỳ, Hải Dương).

Thu giữ của Hoàng Phong N: 01 thẻ CCCD số 030091002209 mang tên Phạm Quang T có dán ảnh của Hoàng Phong N và 01 phiếu trả lời kết quả xét nghiệm SARS - CoV 2 - Bệnh viện đa khoa quốc tế Thu Cúc ngày 04/3/2022, bệnh nhân: Phạm Quang T;

Quá trình điều tra vụ án, xác định:

Phạm Quang T (Sinh năm: 1991, HKTT: Hưng Đạo, Tứ Kỳ, Hải Dương) là giáo viên dạy tiếng anh tại trường THPT Cầu Xe, Hưng Đạo, Tứ Kỳ, Hải Dương. T muốn có chứng chỉ tiếng Anh C1 nhưng không đủ trình độ để thi nên cuối tháng 8/2021, T lên mạng Internet tìm người hỗ trợ cấp chứng chỉ tiếng Anh C1 mà không phải thi thì liên hệ được với Phạm Minh T (Sinh năm:

1994, HKTT: Cự Khê, Thanh Oai, Hà Nội). Minh T nêu chi phí để cấp chứng chỉ C1 là 29.800.000 đồng sẽ được bao lo người thi hộ và toàn bộ thủ tục khác, phải đặt cọc trước 14.800.000 đồng, khi nào nhận chứng chỉ sẽ thanh toán nốt. Quang T đồng ý. Minh T yêu cầu Quang T cung cấp toàn bộ thông tin gồm ảnh chụp CCCD 2 mặt, số điện thoại và email để làm giả thẻ CCCD của Quang T và đăng ký thi thì Quang T đồng ý. Ngày 29/10/2021, Quang T nộp 14.800.000 đồng tiền mặt vào tài khoản ngân hàng Techcombank số 190312040840xx của Minh T. Sau khi nhận được tiền, Minh T liên hệ với Nguyễn Tiến M (Sinh năm: 2000, HKTT: Minh Khai, Hồng Bàng, Hải Phòng) để nhờ M tìm người thi hộ chứng chỉ tiếng Anh C1, M đồng ý. Minh T chuyển khoản đến tài khoản BIDV số 323100002234xx mang tên Nguyễn Tiến M số tiền 5.000.000 đồng để lo chi phí và gửi toàn bộ các thông tin của Quang T cho M để M đăng ký thi tại kỳ thi cấp chứng chỉ tiếng Anh vào ngày 05/3/2022 tại Trường Đại học Hà Nội, đồng thời bảo Quang T chuyển khoản số tiền 1.800.000 đồng lệ phí thi vào tài khoản của Đại học Hà Nội để hoàn tất thủ tục đăng ký. Thời điểm này M quen Hoàng Phong N thông qua việc chơi game, biết Nam có khả năng tiếng anh tốt nên nhờ Nam thi hộ cho Phạm Quang T với chi phí là 1.000.000 đồng, khi nào có kết quả thi đỗ sẽ được nhận tiền. Nam đồng ý, sau đó gửi ảnh chân dung và địa chỉ của mình cho M để làm thủ tục đăng ký dự thi. Sau khi có ảnh của Nam, M liên hệ với một người sử dụng Zalo tên “Trần Văn Phương” (không rõ lai lịch) làm giả thẻ CCCD của Phạm Quang T với chi phí 1.500.000 đồng. Trưa ngày 05/3/2022, M thuê 01 người shipper (không rõ lai lịch) mang thẻ CCCD giả mang tên Phạm Quang T gửi cho Nam. Khi nhận được thẻ CCCD trên, Nam biết là thẻ CCCD giả vì hình ảnh trên thẻ là của Nam nhưng thông tin trên thẻ là của Phạm Quang T. Tuy nhiên vì muốn thi hộ để kiếm lời, Nam vẫn đi test Covid 19 tại Bệnh viện đa khoa Thu Cúc (địa chỉ: 136 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội) và khai tên là Phạm Quang T. Đến chiều 05/3/2022, Nam sử dụng thẻ CCCD giả và giấy xét nghiệm Covid trên để tham gia dự thi tại Đại học Hà Nội thì bị cơ quan chức năng phát hiện.

Tại Bản kết luận giám định số 2148 ngày 05/4/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP Hà Nội kết luận: Thẻ căn cước công dân mang tên Phạm Quang T (số 030091002209) là tài liệu giả Tại Bản kết luận giám định số 2836 ngày 06/5/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an TP Hà Nội kết luận:

+ Con dấu đóng ra hình dấu tròn “BỆNH VIỆN ĐA KHOA QUỐC TẾ THU CÚC - CHI NHÁNH CÔNG TY CỔ PHẦN Y KHOA & THẨM MỸ THU CÚC” (trên mẫu so sánh) không đóng ra hình dấu tròn “BỆNH VIỆN ĐA KHOA QUỐC TẾ THU CÚC - CHI NHÁNH CÔNG TY CỔ PHẦN Y KHOA & THẨM MỸ THU CÚC” trên “Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm SARS - CoV 2 - Bệnh viện đa khoa quốc tế Thu Cúc, bệnh nhân: Phạm Quang T ngày 04/3/2022”, hình dấu trên được tạo ra bằng phương pháp in màu kỹ thuật số.

Ngày 01/8/2022, Công ty cổ phần y khoa & thẩm mỹ Thu Cúc có Công văn số 33 cung cấp: Công ty cho phép sử dụng phương pháp in màu kỹ thuật số để xác nhận văn bản điện tử do công ty hoặc chi nhánh khác của công ty phát hành. Cơ quan điều tra đã xác minh tại Bệnh viện đa khoa quốc tế Thu Cúc, xác định: Ngày 04/3/2022, có bệnh nhân khai tên Phạm Quang T đến Bệnh viện đa khoa quốc tế Thu Cúc để xét nghiệm Covid 19.

Quá trình điều tra vụ án, Hoàng Phong N khai bị bệnh động kinh từ khoảng năm 2017 đến nay và được điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Xác minh tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội cho kết quả: Hoàng Phong N không điều trị nội trú nên không có bệnh án, lấy đơn thuốc mang về rồi tự mua thuốc uống, điều trị tại nhà. Nam khám và được chẩn đoán: Động kinh - G40. Xác minh tại gia đình cho kết quả: Nam bị bệnh động kinh, co giật từ khoảng năm 2017 và điều trị uống thuốc ngoại trú, hiện đang uống thuốc điều độ và không có biểu hiện, nếu dừng uống thuốc sẽ lại có biểu hiện co giật. Quá trình mang thai Nam, bố mẹ không có bệnh lý gì. Mẹ của Nam có tiền sử bị bệnh động kinh từ nhỏ nhưng không còn bệnh án. Xác minh tại chính quyền địa phương được biết: Nam hoàn toàn bình thường, không có biểu hiện của bệnh tâm thần, không nằm trong danh sách theo dõi và lấy thuốc điều trị tâm thần của địa phương.

Ngày 30/12/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Nam Từ Liêm ra quyết định trưng cầu giám định số 58/QĐ-CQĐT đối với tình trạng tâm thần của Hoàng Phong N. Do chưa có kết quả trả lời nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm đã ban hành Quyết định tách vụ án hình sự số 04 ngày 01/03/2023; Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án số 10 ngày 01/03/2023; Quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can số 06 ngày 01/03/2023.

Ngày 26/06/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm nhận được Kết luận giám định pháp y tâm thần số 116/KLGĐ ngày 10/05/2023 của Viện Pháp y tâm thần trung ương – Bộ y tế kết luận: Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội ngày 05/3/2022 và tại thời điểm giám định bị cáo Hoàng Phong N bị bệnh Động kinh toàn thể cơn lớn, chưa có biến đổi nhân cách. Theo phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số G40.6. Tại các thời điểm trên bị cáo đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Tại cơ quan điều tra, Hoàng Phong N đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của Phạm Minh T, Phạm Quang T, Nguyễn Tiến M, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Đối với hành vi của Phạm Minh T, Phạm Quang T, Nguyễn Tiến M, đã bị Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm xét xử tại Bản án số 141 ngày 20/6/2023.

Đối với đối tượng giao thẻ CCCD giả mang tên Phạm Quang T cho Nam như Nam khai, Cơ quan điều tra không xác minh được nhân thân, lai lịch nên không có căn cứ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 251/CT-VKS ngày 08/09/2023 Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã truy tố Hoàng Phong N về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại điện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo nội dung bản cáo trạng, sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Hoàng Phong N từ 35.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng Về vật chứng: Không.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận: Vào ngày 05/03/2022, trong kỳ thì cấp chứng chỉ tiếng anh tại Trường Đại học Hà Nội (địa chỉ Km 9 đường Nguyễn Trãi, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà Nội), Hoàng Phong N có hành vi sử dụng thẻ CCCD giả mang tên Phạm Quang T để thi hộ chứng chỉ tiếng Anh C1 cho Phạm Quang T thì bị phát hiện.

[3] Hành vi của bị cáo Hoàng Phong N đã cấu thành tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo là có căn cứ và đúng quy định pháp luật.

[4] Xét tính chất của vụ án nghiêm trọng, hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến trật tự quản lý hành chính, sự hoạt động bình thường và uy tín của các cơ quan Nhà nước; xâm phạm lợi ích của Nhà nước, cá nhân là những khách thể được luật hình sự bảo vệ. Các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ việc làm của mình là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xét xử nghiêm minh cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, nhằm đảm bảo tính giáo dục đối với bị cáo và làm bài học ngăn ngừa chung.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét: Tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có tiền sử động kinh nên áp dụng điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt là phạt tiền đối với bị cáo, cũng thấy đủ răn đe và giáo dục bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có điều kiện thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Xử lý vật chứng: Không.

[7]. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự; Điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Phong N phạm tội Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.

Xử phạt bị cáo Hoàng Phong N 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu) đồng.

Về dân sự: Không.

Về vật chứng: không Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333, điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 260/2023/HS-ST về tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

Số hiệu:260/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;