Bản án 259/2020/HNGĐ-ST ngày 19/08/2020 về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG TÂY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 259/2020/HNGĐ-ST NGÀY 19/08/2020 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

rong ngày 19 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 127/2020/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 5 năm 2020 về tranh chấp “Xin ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 62/2020/ QĐST-HNGĐ ngày 03/8/2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Diệu L, sinh năm 1980.

Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn: Anh Bùi Thiện Q, sinh năm 1978.

Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyên G, tỉnh Tiền Giang.

(Chị L có đơn xin vắng mặt, anh Q vắng măt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn chị Phạm Thị Diệu L có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, nhưng trong quá trình giải quyết chị L trình bày:

Chị và anh Q chung sống với nhau từ năm 2003 do quen biết, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang ngày 30/5/2003. Quá trình chung sống hạnh phúc, nhưng anh Q có tính cờ bạc, ham chơi nên gây nợ, không chăm lo cuộc sống gia đình. Do đó hai anh chị thường xuyên cự cãi, mâu thuẫn trầm trọng. Đến khoảng tháng 4/2020 anh Q đã bỏ nhà đi, không trở về nhà từ đó cho đến nay, anh Q cũng không liên lạc gì với chị. Do đó, chị xác định hôn nhân của anh chị đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên chị xin ly hôn với anh Q.

Quá trình chung sống, anh chị có hai con chung tên Bùi Lan V, sinh ngày 16/11/2003 và Bùi Hoàng Khánh H, sinh ngày 10/5/2009. Hiện nay, cháu V và cháu H đang sống với chị L, chị L yêu cầu tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung, không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con.

Về nợ chung: Không có.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị không trình bày gì thêm khác.

* Bị đơn anh Bùi Thiện Q đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, công bố, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, nhưng vẫn vắng mặt và cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu xin ly hôn, nuôi con chung của chị Phạm Thị Diệu L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng, chị Phạm Thị Diệu L có đơn xin vắng mặt, Bùi Thiện Q được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để dự phiên tòa, nhưng anh Q vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng. Căn cứ Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

[2] Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả thảo luận của Hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử xác định quan hệ các bên đang tranh chấp là: “Tranh chấp xin ly hôn, nuôi con chung” cần được xem xét, giải quyết theo Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Xét về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh Q tự nguyện cưới nhau, đăng ký kết hôn vào ngày 30/5/2003, tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang, hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Theo đơn ly hôn và quá trình giải quyết vụ án chị L cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do anh Q có tính ham chơi cờ bạc, gây nhiều nợ nần. Xét thấy, mặc dù anh Q không đến Tòa án để trình bày mâu thuẫn xảy ra giữa anh và chị L có đúng như chị L đã trình bày hay không nhưng t ừ khi chị L nộp đơn xin ly hôn với anh cho đến nay, anh Q không tham dự phiên hòa giải và tham dự phiên tòa để trình bày ý kiến và hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều đó, cho thấy anh Q cũng không tha thiết đến cuộc hôn nhân với chị L. Tại phiên tòa, chị L cũng vẫn cương quyết xin ly hôn với anh Q vì cho rằng anh Q và chị đến nay vẫn không thể tự hàn gắn được. Do vậy, Hội đồng xét xử nhận thấy tình trạng hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L.

[4] Về con chung: Chị L và anh Q có hai con chung tên Bùi Lan V, sinh ngày 16/11/2003 và Bùi Hoàng Khánh H, sinh ngày 10/5/2009. Hiện nay cháu V và cháu H đang sống với chị L, chị L yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung, không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, hiện nay cháu V và cháu H đang sống với chị L đã ổn định trong việc sinh hoạt cũng như việc học tập, đồng thời theo nguyện vọng các cháu muốn sống chung với chị L, mặc dù anh Q không có ý kiến gì nhưng Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu V và cháu H cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L chưa có yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết. [6] Về nợ chung: Không có.

[7] Về án phí: Chị L yêu cầu xin ly hôn nên phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các điều 147, 238, 235 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình;

- Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Phạm Thị Diệu L.

1. Về hôn nhân: Chị Phạm Thị Diệu L được ly hôn với anh Bùi Thiện Q.

2. Về con chung: Chị Phạm Thị Diệu L được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Bùi Lan V, sinh ngày 16/11/2003 và cháu Bùi Hoàng Khánh H, sinh ngày 10/5/2009.

Anh Q được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau khi ly hôn.

Chị L cùng các thành viên trong gia đình không được ngăn cản anh Q thực hiện quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau khi ly hôn.

3. Về án phí: Chị L phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0016486 ngày 14/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Công Tây nên chị L đã nộp xong án phí.

Anh Q không phải nộp án phí hôn nhân sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị L, anh Q được quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 259/2020/HNGĐ-ST ngày 19/08/2020 về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:259/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Tây - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;