Bản án 259/2019/HSST ngày 16/07/2019 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 259/2019/HSST NGÀY 16/07/2019 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 16 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 198/2019/HSST, ngày 10/4/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 2866/2019/QĐST-HS ngày 26 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê V B; giới tính: nam; sinh năm 1990; tại tỉnh Trà Vinh; nơi ĐKHKTT: Khóm 9, thị trấn C L, huyện C L, tỉnh Trà Vinh; chỗ ở: số: 01 ấp a, xã P L, huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: không biết chữ; nghề nghiệp: phụ hồ; con ông Lê V T, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Thị Th H, sinh năm 1955; vợ: Nguyễn Thị B T, sinh năm 1990; con: có 02 con (lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2015); tiền án, tiền sự: không.

- Bị bắt, tạm giam từ ngày 04/6/2018.

Những người tham gia tố tụng khác:

+Người bào chữa: Ông Trần Kim H là Luật sư của Công ty Luật TNHH H Trần và Cộng sự thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Lê V B.

+Bị hại: Ông Trần V H, sinh năm 1959 (chết)

+Đại diện hợp pháp cho người bị hại:

1. Bà Trần Thị H Huỳnh, sinh năm 1961 (là vợ của bị hại); cư trú: nhà trọ không số, ấp 1, xã P L, huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở hiện nay: 329 B T Đ, phường B T Đ A, quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

2. Bà Trần Thị Ngọc Ánh, sinh năm 1986; cư trú: 233/Y Khu phố 5, T X Quận S, phường T H, X, Thành phố Hồ Chí Minh; (có mặt).

3. Bà Trần Thị Thanh, sinh năm 1979; cư trú: 030 Lô X, chung cư N G T, Phường 2, Quận c, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

4. Ông Trần Văn Tâm, sinh năm 1990; cư trú: phòng trọ số 10 nhà không số, ấp 1, xã P L, huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở hiện nay: 329 B T Đ, phường B T Đ A, quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

+Người làm chứng:

1. Ông Ngô H Tâm, sinh năm 1988; cư trú: nhà trọ không số, ấp 1, xã P L, huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

2. Bà Nguyễn Thị B T, sinh năm 1990; cư trú: số 1, ấp 3, xã P L, huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở hiện nay: E/22 D B T, Phường 1, Quận o, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

3. Bà Lê Thị K T, sinh năm 1982; cư trú: số 417/1 H, Phường 5, Quận c, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16h00’ ngày 03/6/2018, Lê V B đang uống bia tại nhà trọ cùng với vợ là chị Nguyễn Thị B T và chị ruột là Lê Thị K T. Lúc này, ông Trần V H (là bác vợ của B) điện thoại cho chị Tuyền và chửi vợ chồng chị Tuyền, về việc ông H mua điện thoại trả góp dùm cho chị Tuyền nhưng vợ chồng chị Tuyền chậm đóng tiền trả góp cho cửa hàng nên giữa ông H và vợ chồng Tuyền mâu thuẫn dẫn đến cãi nhau. Sau đó, B ngừng uống bia và chở vợ, con đi khám bệnh rồi ghé nhà ông H nói chuyện về việc chị Tuyền đã đóng tiền trả góp rồi nhưng có thể do ngân hàng chưa chuyển tiền cho cửa hàng nên cửa hàng mới điện thoại đòi tiền ông H. Trước khi đi, B đi xuống bếp lấy cây kéo dài khoảng 19,5 cm ở nhà bếp bỏ vào túi quần jean bên trái phía trước, mục đích nếu ông H đánh B thì B sẽ sử dụng để đánh lại (bút lục 161), và điều khiển xe máy biển số 59U1-014.09 chở vợ, con đi khám bệnh. Khi đi ngang nhà trọ nơi ở của ông H tại ấp 1, xã P L, huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh, B dừng xe cách nhà trọ ông H khoảng 40-50 mét để Tuyền đi vào một mình, còn B và con trai ngồi trên xe máy chờ (bút lục 156, 161).

Lúc này, cả nhà ông H gồm bà Trần Thị H Huỳnh (vợ ông H), chị Trần Thị Ngọc Ánh và anh Trần Văn Tâm (đều là con ông H) vừa tổ chức xong đám giỗ và đang ở trong nhà. Tuyền đứng trước cửa phòng trọ và hỏi ông H: “Ông làm gì mà điện thoại cho tôi hoài vậy, thằng B đập điện thoại tôi rồi kìa, ông bà vừa lòng chưa”. Bà Hoa cũng nói: “Thôi tao sai rồi, tao xin lỗi mày”, ông H xông ra định đánh Tuyền nhưng bà Hoa can ngăn và đẩy Tuyền ra đi về. Ông H đi theo, thấy B ở ngoài nên ông H mới nói lớn “Thằng Mỹ (cháu ông H) thấy tao với con Tuyền đi khách sạn”, B hỏi chị Tuyền thì Tuyền trả lời là: “Ông nói để hai vợ chồng mình gây lộn”. Sau đó, ông H hỏi B “Muốn gì”, B trả lời: “Ông muốn gì thì ra đây”. Ông H chạy vào trong nhà lấy cây mỏ lết dài khoảng 25cm cầm trên tay phải rồi chạy đến chỗ B; B sợ trúng con mình đang ngồi trên xe nên bước ra sau đuôi xe cách khoảng 01 mét. Ông H chạy đến đứng đối diện B, tay phải cầm cây mỏ lết đánh 01 cái trúng vào đầu của B làm chảy máu và bị choáng thì chị Ánh chạy đến can ngăn thì bị B xô ngã xuống đất. B bước ngang qua để tránh thì bị ông H tiếp tục dùng mỏ lết đánh vào đầu nhưng bị trượt. Ông H cầm một vật giống đèn pin chích điện màu đen dài khoảng 20cm, đường kính 03cm chích vào tay phải B nghe tiếng “tạch, tạch”, làm tay B bị tê (bút lục 170-173). Sau đó, ông H dùng tay phải đang cầm mỏ lết kẹp cổ B (vòng tay qua cổ), tay trái ông H đưa lên định đánh tiếp vào mặt B thì tay phải B chụp vào bắp tay trái ông H kéo ông H về phía B; đồng thời tay trái B lấy kéo từ trong túi quần jean phía trước của B đâm nhiều nhát vào vùng ngực, bụng, người ông H (09 vết thương do vật sắc nhọn gây ra, 04 vết thương do cơ chế cắt gây ra), khi thấy ông H chảy máu tại vùng bụng thì B buông tay ông H đồng thời đẩy ông H ra. Ông H quay người bỏ chạy hướng về nhà trọ thì bị té ngã xuống đất tử vong (bút lục từ 354 đến 361, 258). Tuyền chở B đến Bệnh viện Quận o để khâu vết thương, khi về nhà thì Công an đến mời B về trụ sở để làm việc (bút lục 182).

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 543-18/KLGĐ-PY ngày 03/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận nguyên nhân Trần V H chết: “Do đa vết thương đâm thủng tim, gan, đại tràng ngang và ruột non; nồng độ cồn trong máu 119,6 mg/100ml” - Bút lục 31-34.

Tại công văn giải thích pháp y số 674/CV-PC09-Đ4 ngày 29/8/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh giải thích như sau:

1.Cơ chế hình thành dấu vết thương tích:

1.1 Các vết thương ở giữa xương ức, kích thước 1,7cm x 0,7cm; ở bờ sườn trái, kích thước 1,2 cm x 0,7cm; ở liên sườn 8 bên phải, kích thước 2,2cm x 0,5cm; ở vùng hạ vị, kích thước 2cm x 0,8cm; ở giữa xương đòn trái, kích thước 1cm x 0,3cm, ở bả vai trái có 2 vết thủng rách da dạng chấm đường kính 0,3cm; ở mào chậu trái trên đường nách giữa 2 vết, kích thước 0,6cm x 0,3cm và 0,4cm x 0,2cm; ở bẹn phải 2 vết, kích thước tương tự nhau 0,6cm x 0,2cm; ở thắt lưng – mông phải, kích thước 2,3cm x 0,1cm. Các vết thương này có dạng hình bầu dục hay dạng chấm, đều có bờ mép sắc gọn do vật sắc nhọn gây ra theo cơ chế đâm.

1.2 Các tổn thương đứt da nông cánh tay trái, kích thước 2cm x 0,3cm và các tổn thương xước da nông ở cánh tay phải, kích thước 8cm x 0,2cm và 14cm x 0,5cm; ở cánh tay trái, kích thước 3cm x 0,5cm và 3cm x 0,1cm; ở cẳng tay trái, kích thước 3cm x 0,1cm và xước da nông mông phải, kích thước 2cm x 0,2cm do vật có cạnh sắc gây ra theo cơ chế cắt.

1.3 Các tổn thương xây xát da ở đuôi cung mày và gò má phải, kích thước 6cm x 1,5cm; ở khuỷu tay phải, kích thước 6,5cm x 3cm; ở gối phải, kích thước 4,5cm x 3cm và ở gối trái, kích thước 3cm x 1,5cm do tiếp xúc trực tiếp với vật tày gây ra.

Nhận định: Cây kéo như đã mô tả (dài khoảng 19cm, lưỡi kéo dài khoảng 08cm, cán bọc nhựa màu đen dài khoảng 1cm, đầu kéo nhọn) là vật sắc nhọn, có thể gây ra được các vết thương và tổn thương tại mục 1.1 và 1.2 nêu ở trên. Không gây ra được các tổn thương nêu ở mục 1.3 nêu trên” - (Bút lục 258).

Lê V B không yêu cầu giám định thương tích và xử lý hình sự, chỉ yêu cầu bồi thường tiền chữa trị vết thương là 500.000 đồng (bút lục 180-181).

Ngày 04/6/2018, Lê V B bị bắt theo Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Tại Cơ quan điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Lê V B đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng của vụ án:

- 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Samsung màu trắng xám đã qua sử dụng (thu giữ của bị hại Trần V H, bút lục 58); 01 (một) chiếc áo sơ mi dài tay màu đỏ sọc ca rô trắng và 01 (một) chiếc quần sọt màu xanh, loại jean (thu giữ của Lê V B - bút lục 60-61); Thu giữ tại hiện trường: 01 (một) cây kéo bằng kim loại, dài khoảng 19cm; 01 (một) cây mỏ lết bằng kim loại dài khoảng 25cm; 01 (một) mũ bảo hiểm màu xanh sọc trắng đỏ; 02 (hai) gạc y tế thu dấu vết màu đỏ - (bút lục 62); 01 (một) xe gắn máy biển số 59U1 - 014.09. Qua xác minh, do ông Trần Nghiệp H đứng tên sở hữu nên Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trả lại cho ông H (bút lục 65).

Về dân sự: Gia đình bị hại là bà Trần Thị H Huỳnh (vợ của ông Trần V H) và 03 con của ông Trần V H yêu cầu Lê V B bồi thường 52.800.000 đồng và yêu cầu xử lý Lê V B theo đúng quy định pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 138/CT-VKS-P2 ngày 02/4/2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Lê V B về tội “Giết người” theo quy định tại Khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa dổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố, trình bày lời luận tội, đánh giá tính chất, mức độ và hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng Khoản 2 Điều 123; các điểm b, e, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa dổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Lê V B mức án từ 05 – 06 năm tù.

- Về dân sự: buộc bị cáo Lê V B bồi thường thiệt hại về tính mạng bị hại cho đại diện hợp pháp của ông Trần V H; và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

+Bào chữa cho bị cáo Lê V B, Luật sư thống nhất với tội danh và khung hình phạt Viện kiểm sát truy tố nên không tranh luận. Luật sư chỉ phần tích đề nghị Hội đồng xét xử xem xét: Về nguyên nhân xảy ra vụ án, bị cáo phạm tội trong hoàn cảnh bị kích động bởi hành vi và lời nói của bị hại chửi, đòi đánh vợ của bị cáo và sử dụng cây mỏ lết dài 25cm tấn công đánh vào đầu gây thương tích cho Lê V B; bị cáo không có mục đích tước đoạt tính mạng ông H từ trước mà nhất thời phạm tội. Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính nuôi hai con còn nhỏ; và có bố và bác của bị cáo tham gia kháng chiến. Để đề nghị áp dụng các điểm b, e, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), xử phạt bị cáo Lê V B mức án dưới mức Viện kiểm sát đề nghị, cho bị cáo cơ hội cải tạo để sớm hòa nhập xã hội, làm lại cuộc đời.

+Đại diện hợp pháp của bị hại: các ông, bà Trần Thị H Huỳnh, Trần Thị Ngọc Ánh, Trần Thị Thanh và Trần Văn Tâm đề nghị Tòa án xét xử theo quy định của pháp luật.

+Bị cáo Lê V B thống nhất với ý kiến của Luật sư bào chữa nên không tranh luận, chỉ nói lời sau cùng xin xem xét được hưởng sự khoan hồng của pháp luật vì bản thân đã nhận thức được hành vi sai phạm của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa, Lê V B đã khai nhận toàn bộ diễn biến về hành vi khách quan trong việc xảy ra xô xát giữa bị cáo và ông Trần V H vào khoảng 16h00’ ngày 03/6/2018, và bị cáo đã sử dụng 01 cây kéo dài khoảng 19cm mang theo sẵn đâm nhiều nhát vào người ông H ở tư thế đứng đối diện, khi thấy ông H chảy máu tại vùng bụng thì Lê V B buông tay ông H, đồng thời đẩy ông H ra thì ông H quay người bỏ chạy về hướng nhà trọ. Nội dung bị cáo Lê V B khai nhận phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố.

Xét, theo bản kết luận giám định pháp y tử thi số 543-18/KLGĐ-PY ngày 03/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận nguyên nhân ông Trần V H chết: “Do đa vết thương đâm thủng tim, gan, đại tràng ngang và ruột non; nồng độ cồn trong máu 119,6 mg/100ml” - (bút lục 31-34).

Tại công văn giải thích pháp y số 674/CV-PC09-Đ4 ngày 29/8/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, có nội dung như sau:

1. Cơ chế hình thành dấu vết thương tích:

1.1 Các vết thương ở giữa xương ức, kích thước 1,7cm x 0,7cm; ở bờ sườn trái, kích thước 1,2 cm x 0,7cm; ở liên sườn 8 bên phải, kích thước 2,2cm x 0,5cm; ở vùng hạ vị, kích thước 2cm x 0,8cm; ở giữa xương đòn trái, kích thước 1cm x 0,3cm; ở bả vai trái có 02 vết thủng rách da dạng chấm đường kính 0,3cm; ở mào chậu trái trên đường nách giữa có 02 vết, kích thước 0,6cm x 0,3cm và 0,4cm x 0,2cm; ở bẹn phải có 02 vết, kích thước tương tự nhau 0,6cm x 0,2cm; ở thắt lưng – mông phải, kích thước 2,3cm x 0,1cm. Các vết thương này có dạng hình bầu dục hay dạng chấm, đều có bờ mép sắc gọn do vật sắc nhọn gây ra theo cơ chế đâm.

1.2 Các tổn thương đứt da nông cánh tay trái, kích thước 02cm x 0,3cm và các tổn thương xước da nông ở cánh tay phải, kích thước 08cm x 0,2cm và 14cm x 0,5cm; ở cánh tay trái, kích thước 03cm x 0,5cm và 03cm x 0,1cm; ở cẳng tay trái, kích thước 03cm x 0,1cm và xước da nông mông phải, kích thước 02cm x 0,2cm; do vật có cạnh sắc gây ra theo cơ chế cắt.

1.3 Các tổn thương xây xát da ở đuôi cung mày và gò má phải, kích thước 6cm x 1,5cm; ở khuỷu tay phải, kích thước 6,5cm x 3cm; ở gối phải, kích thước 4,5cm x 3cm và ở gối trái, kích thước 3cm x 1,5cm do tiếp xúc trực tiếp với vật tày gây ra.

Nhận định: Cây kéo như mô tả (dài khoảng 19cm, lưỡi kéo dài khoảng 08cm, cán bọc nhựa màu đen dài khoảng 1cm, đầu kéo nhọn) là vật sắc nhọn, có thể gây ra được các vết thương và tổn thương tại mục 1.1 và 1.2 nêu trên.

Không gây ra được các tổn thương nêu ở mục 1.3 nêu trên”- (bút lục 258).

Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo Lê V B tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với: biên bản vụ việc, biên bản tạm giữ đồ vật - tài liệu, biên bản thực nghiệm điều tra, biên bản nhận dạng, biên bản xem xét dấu vết cơ thể, lời khai người làm chứng, hung khí bị cáo sử dụng để gây án phù hợp với thương tích đã gây ra cho bị hại (được thể hiện tại bản kết luận giám định pháp y tử thi - kèm bản ảnh), cùng các tài liệu, biên bản về hoạt động tố tụng khác của Cơ quan điều tra đã thu thập có tại hồ sơ vụ án.

Đã có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 16h00’ ngày 03/6/2018, tại khu vực nhà trọ của ông Trần V H ở ấp 1, xã P L, huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh, trong lúc xảy ra xô xát vì bị ông Trần V H dùng cây mỏ lết bằng kim loại dài khoảng 25cm cầm trên tay phải đánh 01 cái trúng vào đầu của Lê V B làm chảy máu và bị choáng, chị Ánh chạy đến can ngăn thì bị B xô ngã xuống đất, B bước ngang qua để tránh thì ông H dùng mỏ lết đánh vào đầu B nhưng bị trượt; ông H tiếp tục dùng tay phải đang cầm mỏ lết kẹp cổ B (vòng tay qua cổ), tay trái ông H đưa lên định đánh tiếp vào mặt B thì tay phải B chụp vào bắp tay trái ông H kéo ông H về phía B, B rút cây kéo (dài khoảng 19cm, lưỡi kéo dài khoảng 08cm, cán bọc nhựa màu đen dài khoảng 1cm, đầu kéo nhọn) chuẩn bị sẵn mang theo từ trong túi quần jean phía trước của B đâm nhiều nhát vào vùng ngực, bụng và người của ông H; khi thấy ông H chảy máu tại vùng bụng thì B buông tay ông H, đồng thời đẩy ông H ra. Ông H quay người bỏ chạy hướng về nhà trọ thì bị té ngã xuống đất tử vong.

Đi với Lê V B bị thương tích nhẹ, sau khi gây án được vợ là Nguyễn Thị B T chở đến bệnh viện Quận o sơ cứu và quá trình điều tra từ chối giám định thương tích.

Xét, mặc dù khi Lê V B bị ông Trần V H sử dụng cây mỏ lết dài khoảng 25cm là hung khí tấn công đánh 01 cái trúng vào đầu của B làm chảy máu và tiếp tục dùng mỏ lết đánh vào đầu nhưng bị trượt (gây thương tích nhẹ cho bị cáo) thì Lê V B được quyền phòng vệ chính đáng theo quy định của pháp luật; nhưng về tương quan lực lượng, bản thân Lê V B là thanh niên có sức khỏe và thể trạng cao lớn hơn ông H (sinh năm 1959, cao 154cm). Trong lúc bị ông H dùng tay phải kẹp vào cổ B (vòng tay qua cổ), tay trái ông H định đánh B; nếu Lê V B dùng cây kéo dài 19cm mũi sắc nhọn là hung khí đâm một nhát với lực tác động mạnh đã làm suy yếu, giảm sức khỏe và ông H không còn khả năng tấn công gây nguy hại đến sức khỏe của bị cáo; nhưng Lê V B lại sử dụng hung khí tấn công đâm ông H rất nhiều nhát, gây ra 13 vết thương (09 vết thương do vật sắc nhọn gây ra, 04 vết thương do cơ chế cắt gây ra). Trong đó, có nhiều nhát đâm với lực tác động mạnh vào vùng trọng yếu trên cơ thể bị hại gây đa thương tích, với những vết thương gây thủng tim, gan, đại tràng ngang và ruột non; là nguyên nhân tất yếu tước đoạt trái phép tính mạng của bị hại.

Với hậu quả gây ra trong vụ án đã tước đoạt trái phép tính mạng của ông Trần V H và hành vi nêu trên của bị cáo Lê V B, đã phạm vào tội “Giết người”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Hành vi phạm tội của bị cáo Lê V B là rất nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến tính mạng người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, mà còn gây ảnh hưởng, tác động xấu đến trật tự, trị an xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức được hậu quả do hành vi trái pháp luật gây ra nhưng với thái độ coi thường tính mạng của người khác vẫn cố ý phạm tội.

Để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, về hình phạt đặt ra phải nghiêm, cần có một thời gian đủ dài cách ly xã hội mới đủ tác dụng để răn đe, giáo dục bị cáo nói riêng và công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm chung. Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử cũng xem xét: bị cáo phạm tội lần đầu, về nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; về nguyên nhân xảy ra vụ án, bị cáo phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do bị hại có những lời nói, chửi, đòi đánh vợ của bị cáo và có hành vi trái pháp luật dùng hung khí vô cớ tấn công gây thương tích cho Lê V B; tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, có thái độ khai báo thành khẩn, và tự nguyện đồng ý bồi thường, khắc phục thiệt hại thể hiện sự ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại về tính mạng cho gia đình bị hại nên được bãi nại; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, hai con còn nhỏ, và có thân thân là bố và bác ruột tham gia kháng chiến; để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt đáng ra phải chịu theo quy định tại các điểm b, e, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xét tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo Lê V B: phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng; nên áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt bị áp dụng đã đủ tác dụng của hình phạt.

Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố để xét xử đối với bị cáo Lê V B là có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan sai; mức hình phạt đề nghị xử phạt đối với bị cáo là phù hợp nên được chấp nhận.

Ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo Lê V B về các tình tiết giảm nhẹ là phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận. Tuy nhiên, về mức hình phạt đề nghị xử phạt đối với bị cáo là có phần nhẹ, chưa tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, chưa đủ tác dụng của hình phạt như nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử; nên không có cơ sở để được chấp nhận.

+Về thủ tục tố tụng: trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh), người tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên) va Luật sư đã thực hiện các quyết định tố tụng và hành vi tố tụng đúng về trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo thừa nhận tự nguyện khai báo và không có khiếu nại trong các giai đoạn tiến hành tố tụng; nên đều hợp pháp.

+Về dân sự: Trong giai đoạn điều tra, đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu Lê V B bồi thường chi phí mai táng là 52.800.000 đồng. Bà Nguyễn Thị B T (vợ bị cáo Lê V B) đã bồi thường 20.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, giữa bị cáo và đại diện hợp pháp của ông Trần V H (gồm các ông, bà: Trần Thị H Huỳnh là vợ của bị hại và 03 người con của bị hại là Trần Thị Ngọc Ánh, Trần Thị Thanh và Trần Văn Tâm) thỏa thuận: Lê Thanh B có trách nhiệm tiếp tục bồi thường thiệt hại về tính mạng bị hại cho đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 32.800.000 đồng chi phí mai táng và 100.000.000 đồng (tiền mất thu nhập và tổn thất về tinh thần). Tổng cộng là 132.800.000 đồng.

Xét, sự thỏa thuận nêu trên là tự nguyện, mức và phương thức bồi thường phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); các Điều 584, 585, 586 và Điều 591 của Bộ luật Dân sự 2015; nên ghi nhận.

Do đó, buộc bị cáo Lê V B có trách nhiệm bồi thường về tính mạng bị hại cho đại diện hợp pháp của ông Trần V H 132.800.000 đồng. Thi hành ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

+Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, xét:

- 01 chiếc áo sơ mi dài tay màu đỏ sọc ca rô trắng và 01 chiếc quần sọt màu xanh, loại jean (thu giữ của Lê V B, bút lục 60 - 61); 01 cây kéo bằng kim loại, dài khoảng 19cm và 01 (một) cây mỏ lết bằng kim loại dài khoảng 25cm;

01 mũ bảo hiểm màu xanh sọc trắng đỏ; 02 (hai) gạc y tế thu dấu vết màu đỏ; là những đồ vật, vật chứng trong vụ án không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy toàn bộ;

- 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Samsung màu trắng xám đã qua sử dụng, qua điều tra là tài sản cá nhân của ông Trần V H nên trả lại cho đại diện hợp pháp của bị hại.

+Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, buộc bị cáo Lê V B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo mức có giá ngạch trên số tiền phải thanh toán theo quy định tại và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

QUYẾT ĐỊNH

+Căn cứ vào khoản 2 Điều 123; các điểm b, e, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Lê V B 06 (sáu) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính kể từ ngày 04/6/2018.

+Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào khoản 2 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); các Điều 584, 585, 586 và Điều 591 của Bộ luật Dân sự 2015.

Buộc bị cáo Lê V B có trách nhiệm bồi thường về tính mạng bị hại cho đại diện hợp pháp của ông Trần V H (gồm các ông, bà: Trần Thị H Huỳnh là vợ của bị hại và 03 người con của bị hại là Trần Thị Ngọc Ánh, Trần Thị Thanh và Trần Văn Tâm) số tiền là 132.800.000đ (một trăm ba mươi hai triệu, tám trăm nghìn đồng). Thi hành ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

+Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

+Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc áo sơ mi dài tay màu đỏ sọc ca rô trắng và 01 chiếc quần sọt màu xanh, loại jean (thu giữ của Lê V B, bút lục 60 - 61); 01 cây kéo bằng kim loại, dài khoảng 19cm và 01 cây mỏ lết bằng kim loại dài khoảng 25cm; 01 mũ bảo hiểm màu xanh sọc trắng đỏ; 02 (hai) gạc y tế thu dấu vết màu đỏ (thu giữ tại hiện trường); Trả lại cho đại diện hợp pháp của bị hại Trần V H 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng xám, imei:…303983/0 đã qua sử dụng.

(Vật chứng theo biên bản giao nhận tang tài vật số 282/19 ngày 22 tháng 5 năm 2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

+Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Lê V B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 6.640.000đ (sáu triệu, sáu trăm bốn mươi nghìn) đồng. Nộp tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan Thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án, nếu bị cáo Lê V B chưa thi hành đầy đủ khoản tiền bồi thường thiệt hại về tính mạng theo mức nêu trên, thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi bằng 50% mức lãi suất giới hạn theo quy định tại thời điểm thanh toán, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 259/2019/HSST ngày 16/07/2019 về tội giết người

Số hiệu:259/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;