Bản án 255/2018/HS-ST ngày 18/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 255/2018/HS-ST NGÀY 18/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 257/2018/TLST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 260/2018/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh P, sinh năm 1983 tại tỉnh Bạc Liêu; thường trú: Xóm 6, xã M, huyện Y, tỉnh Nghệ An; tạm trú: 27/25 khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn S (đã chết) và bà Nguyễn Thị P, không rõ năm sinh; có 05 anh, chị em ruột, lớn nhất sinh năm 1980, nhỏ nhất sinh năm 1997; có vợ tên Tô Thị H, sinh năm 1989; có hai người con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 26/5/2018 cho đến nay, có mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Thanh D, sinh năm 1997; địa chỉ: 41/10B khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

2. Chị Lê Hoàng Bảo Y, sinh ngày 08/11/2002; địa chỉ: 109/11/9 đường số 8, khu phố 1, phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

Người giám hộ của chị Lê Hoàng Bảo Y: Bà Lê Thị Hà G, chức vụ: Phó Bí thư đoàn phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Thanh P là người nghiện ma túy. Khoảng 17 giờ, ngày 24/5/2018, bị cáo gọi điện cho đối tượng tên H (chưa rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua 600.000 đồng ma túy và hẹn địa điểm mua bán tại công viên nước D thuộc khu phố N, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Sau đó, bị cáo P mượn xe mô tô không rõ biển số của bạn tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) đến địa điểm hẹn gặp H đưa số tiền 400.000 đồng lấy 03 gói nylon hàn kín bên trong có chứa tinh thể màu trắng, thiếu lại 200.000 đồng. P bỏ ma túy vào trong túi quần bên phải rồi điều khiển xe mô tô đi về phòng trọ tại địa chỉ số 27/25 khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Khi về đến phòng, bị cáo P lấy số ma túy đã mua phân thành 06 gói và sử dụng 02 gói, còn lại 04 gói bị cáo để vào trong túi vải màu đỏ đem cất giấu trong tấm nệm. Đến khoảng 22 giờ 10 phút, ngày 26/5/2018, Công an phường A kiểm tra phát hiện, tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang cùng tang vật.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 túi vải màu đỏ bên trong có 04 gói nylon chứa tinh thể màu trắng.

Theo kết luận giám định số 320/GĐ-PC54 ngày 31/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi đến giám định là ma túy có trọng lượng 0.2688g (ký hiệu M1) và 0.2080g (M2) loại Methamphetamine.

Tại cáo trạng số: 265/QĐ-KSĐT ngày 29 tháng 8 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Thanh P về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã D giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh P mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù và đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thanh P thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trong bản cáo trạng đã nêu và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; những người làm chứng cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Khoảng 17 giờ, ngày 24/5/2018 bị cáo Nguyễn Thanh P mượn xe của người tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) đến khu vực công viên nước D mua của người đàn ông tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) 600.000 đồng ma túy. Sau đó, bị cáo điều khiển xe mô tô về phòng trọ tại khu phố B, phường A, thị xã D chia số ma túy mua được thành 06 gói nhỏ và sử dụng trước 02 gói, còn lại 04 gói cất giấu trong túi vải màu đỏ để dưới tấm nệm sử dụng dần. Đến khoảng 22 giờ 20 phút, ngày 26/5/2018, lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang. Căn cứ kết luận giám định 04 gói nylon chứa tinh thể màu trắng thu giữ của bị cáo P là ma túy, loại Methamphetamine, tổng trọng lượng 0.4768g.

Tại Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

….”

Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Thanh P cất giấu ma túy, loại Methamphetamine có trọng lượng 0.4768g nhằm mục đích sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 265/QĐ - KSĐT ngày 29 tháng 8 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã D và luận tội của Kiểm sát viên truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thanh P là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự an ninh tại địa phương. Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, biết rõ tác hại của ma túy sẽ gây hiểm họa mắc nhiều căn bệnh nguy hiểm, là mầm mống của nhiều loại tội phạm khác nhưng vẫn tàng trữ để sử dụng. Nên cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nghề nghiệp và chỗ ở ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình, có 02 người con còn nhỏ.

[7] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

- Đối với người đàn ông tên H bán ma túy cho bị cáo hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau là phù hợp.

- Đối với người tên H cho bị cáo mượn xe mô tô hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau là phù hợp.

- Đối với số ma túy còn lại sau giám định trọng lượng 0.2111g (M1) và 0.1611g (M2), là chất Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm a, khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh P phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh P 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26 tháng 5 năm 2018.

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư niêm phong số 320/PC54 bên trong chứa tinh thể Methamphetamine trọng lượng sau giám định 0.2111g (M1) và 0.1611g (M2).

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/8/2018 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã D, tỉnh Bình Dương.

3. Án phí sơ thẩm:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Thanh P phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 255/2018/HS-ST ngày 18/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:255/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;