Bản án 25/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM DƯƠNG, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 25/2024/HS-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 3 năm 2024, tại Hội trường Ủy ban nhân dân thị trấn H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 11/2024/TLST-HS ngày 06 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2024/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 3 năm 2024, đối với bị cáo:

Nguyễn Minh H, sinh ngày 03/02/1992; nơi sinh: Thị trấn H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: TDP Đ, thị trấn H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Minh M, sinh năm 1942 (đã chết) và bà Kim Thị B, sinh năm 1951; có vợ là Hà Thị H, sinh năm 1993 (đã ly hôn) và 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2016; tiền sự: Không;

Tiền án: 03.

+ Bản án sơ thẩm số 09/2018/HSST ngày 06/02/2018 của Toà án nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Nguyễn Minh H 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/6/2018, chấp hành xong án phí tháng 02/2019, hiện chưa được xoá án tích.

+ Bản án sơ thẩm số 06/2020/HS-ST ngày 28/02/2020 của Toà án nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Nguyễn Minh H 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/6/2020, chấp hành xong án phí tháng 5/2020, hiện chưa được xoá án tích.

+ Bản án sơ thẩm số 163/2020/HS-ST ngày 10/11/2020 của Toà án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Nguyễn Minh H 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/4/2023, chấp hành xong án phí ngày 22/01/2021, hiện chưa được xoá án tích.

Nhân thân:

+ Bản án sơ thẩm số 04/2009/HSST ngày 12/02/2009 của Toà án nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Nguyễn Minh H 02 năm 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về các tội “Phá huỷ công trình quan trọng về an ninh quốc gia” và “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong bản án và đã được xoá án tích.

+ Ngày 06/7/2012, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc ra quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Nguyễn Minh H, thời hạn 24 tháng. H đã chấp hành xong ngày 06/7/2014 và đã được xóa tiền sự.

+ Ngày 09/10/2017, Công an huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Minh H về hành vi “Trộm cắp tài sản”, mức phạt 1.500.000đồng. H chưa nộp phạt, đến nay đã hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

+ Ngày 14/3/2019, Công an huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Minh H về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, mức phạt 1.000.000đồng. H đã chấp hành xong ngày 19/3/2019 và đã được xóa tiền sự.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14 tháng 10 năm 2023 cho đến nay (có mặt).

- Người làm chứng: Anh Lê Văn H, sinh năm 1986.

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

- Người chứng kiến: Ông Đỗ Văn C, sinh năm 1973.

Nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Minh H là người có nhân thân xấu, đã bị áp dụng tình tiết tái phạm tại bản án sơ thẩm số 163/2020/HSST ngày 10/11/2020 của Toà án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc, xử phạt về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, chưa được xoá án tích. Bản thân H là đối tượng nghiện ma túy Heroine từ năm 2004 cho đến ngày bị bắt giữ.

Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 14/10/2023, Nguyễn Minh H đang ở nhà tại TDP Đ, thị trấn H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc thì bạn của H là L ở xã A, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc gọi điện thoại và rủ H đi mua ma tuý Heroine về cùng nhau sử dụng, H đồng ý. Sau đó, L điều khiển xe mô tô chở H đến khu vực chợ thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc để tìm mua ma tuý Heroine. Tại đây, H đã gặp và mua 01 gói nhỏ ma tuý Heroine với số tiền 200.000đồng của một người nữ giới không rõ tên, tuổi, địa chỉ. Sau khi mua được ma tuý Heroine, H cất gói ma tuý Heroine vào túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi bảo L đưa về nhà để cùng sử dụng. Khoảng 11 giờ 15 phút cùng ngày, khi H và L đi đến đoạn đường Quốc lộ 2C thuộc thôn N, xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc thì bị Công an huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đang làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát trên địa bàn phát hiện có dấu hiệu nghi vấn nên kiểm tra. L phóng xe bỏ chạy thoát, còn H bị Công an huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện, lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang. Vật chứng thu giữ gồm: Thu tại túi quần phía trước bên phải của H 01 gói giấy màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng, niêm phong ký hiệu A1 (H khai là ma túy Heroine, H tàng trữ để sử dụng), thu tại túi quần phía trước bên trái của H 01 chiếc xi lanh đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen cũ đã qua sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 2830/KLGĐ ngày 18 tháng 10 năm 2023, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Chất bột màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định có khối lượng 0,4028 gam là ma túy, loại Heroine.

Người làm chứng anh Lê Văn H, người chứng kiến ông Đỗ Văn C vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình điều tra đã khai nhận phù hợp với nội dung vụ án đã nêu trên.

Tại Cáo trạng số 20/CT-VKSTD ngày 05/02/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố Nguyễn Minh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H từ 06 năm 03 tháng đến 06 năm 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 14 tháng 10 năm 2023; về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản, thu nhập nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đối với mẫu vật hoàn trả sau giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc gồm 0,3642 gam ma tuý Heroine cùng bao gói được niêm phong chung trong một bao gói giấy “MẪU TRẢ” và 01 chiếc xi lanh đã qua sử dụng, đề nghị tịch thu, tiêu hủy; đối với 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu đen cũ đã qua sử dụng, quá trình điều tra xác định là công cụ H sử dụng để trao đổi với L về việc mua ma tuý nên đề nghị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Bị cáo Nguyễn Minh H không bào chữa, không tranh luận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự tố tụng của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người làm chứng, người chứng kiến không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa và trong quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Minh H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, phù hợp với vật chứng thu giữ được và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ chứng cứ khách quan để kết luận:

Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 14/10/2023, sau khi mua ma túy Heroine của một người nữ giới không rõ tên, tuổi, địa chỉ ở khu vực chợ thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc, Nguyễn Minh H và bạn là L điều khiển xe mô tô đến đoạn đường Quốc lộ 2C thuộc thôn N, xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc thì bị Công an huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đang làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát trên địa bàn phát hiện có dấu hiệu nghi vấn nên kiểm tra. L phóng xe mô tô bỏ chạy thoát, còn H bị Công an huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện, bắt quả tang có hành vi tàng trữ 0,4028 gam ma tuý, loại Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân. Cơ quan công an đã thu giữ toàn bộ vật chứng và niêm phong theo quy định của pháp luật.

Nguyễn Minh H đã bị áp dụng tình tiết tái phạm tại bản án sơ thẩm số 163/2020/HSST ngày 10/11/2020 của Toà án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc, xử phạt về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tính đến thời điểm phạm tội ngày 14/10/2023, H chưa được xoá án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Vì vậy, lần phạm tội này được xác định là “Tái phạm nguy hiểm” theo điểm b khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Minh H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

… 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

… o) Tái phạm nguy hiểm.” Xét tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, xâm phạm trật tự trị an, an toàn xã hội, gây nên sự bất bình trong quần chúng nhân dân. Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý đang là tệ nạn xã hội có chiều hướng ngày càng gia tăng, từ tội phạm về ma tuý sẽ dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật khác. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy cần phải xử phạt nghiêm.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; bố, mẹ bị cáo là người có công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cụ thể bố đẻ của bị cáo là ông Nguyễn Minh M được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì và mẹ đẻ của bị cáo là bà Kim Thị B được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo Nguyễn Minh H không có tiền sự nhưng bị cáo có 03 tiền án, trong đó có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” và 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo đã nhiều lần trải qua quá trình cải tạo, giáo dục trong môi trường trại giam nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện tu dưỡng trở thành người công dân có ích cho xã hội mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

Xét nhân thân bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo là người có nhân thân xấu. Bị cáo đã bị kết án về các tội “Phá huỷ công trình quan trọng về an ninh quốc gia” và “Trộm cắp tài sản”, đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” và “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Hội đồng xét xử xét thấy cần phải lên một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, có như vậy mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản, không có thu nhập nên không áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản đối với bị cáo.

[5]. Đối với người nữ giới đã bán ma tuý cho Nguyễn Minh H, quá trình điều tra, H khai không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc không có cơ sở xác minh để xử lý là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6]. Đối với người nam giới tên là L đã gọi điện thoại và rủ H cùng nhau mua ma tuý về sử dụng, quá trình điều tra H khai chỉ quen biết xã hội với L, không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, chỉ biết người này dùng số điện thoại 097816xxxx để liên lạc với H. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đã xác minh. Kết quả xác minh thể hiện, chị Trần Thị H, sinh năm 1994, trú tại thôn P, xã A, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đứng tên chính chủ số điện thoại trên. Tuy nhiên, chị H không có mặt tại địa phương nên không triệu tập để làm việc được. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành xác minh, điều tra xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

[7]. Về xử lý vật chứng:

Đối với mẫu vật hoàn trả sau giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc, gồm 0,3642 gam ma tuý Heroine cùng bao gói được niêm phong chung trong một bao gói giấy “MẪU TRẢ” và 01 chiếc bơm xi lanh đã cũ, cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, đã cũ, đã qua sử dụng, có IMEI1: 357683108729031, IMEI2: 357683108729049, bên trong lắp 01 thẻ sim, quá trình điều tra xác định là công cụ H sử dụng để trao đổi với L về việc mua ma tuý nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[8]. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[9]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật sẽ được Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Nguyễn Minh H 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 14/10/2023).

3. Về vật chứng:

Căn cứ khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy mẫu vật hoàn trả sau giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc gồm 0,3642 gam ma tuý Heroine cùng bao gói được niêm phong chung trong một bao gói giấy “MẪU TRẢ” và 01 chiếc xi lanh đã qua sử dụng.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen cũ đã qua sử dụng, có IMEI1: 357683108729031, IMEI2: 357683108729049, bên trong lắp 01 thẻ sim.

(đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22/3/2024).

4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về án phí, lệ phí toà án, bị cáo Nguyễn Minh H phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 25/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:25/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Dương - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;