Bản án 25/2023/HS-ST về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH ĐB

BẢN ÁN 25/2023/HS-ST NGÀY 28/11/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 28/11/2023, tại trụ sở UBND nhân dân xã Quài N, huyện T, tỉnh ĐB xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 18/2023/TLST-HS ngày 23/10/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2023/QĐXXST-HS ngày 14/11/2023 của Tòa án nhân dân huyện T đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Văn Q; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh năm 1994 tại huyện T, tỉnh ĐB; nơi cư trú: Bản Thín T, xã Mường Th, huyện To, tỉnh ĐB; quốc tịch: Việt nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ học vấn: 12/12; con ông: Lò Văn D, sinh năm 1954; con bà: Cà Thị S, sinh năm 1957; vợ, con: chưa có; tiền án: Không, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xét xử, chưa bị xử lý vi phạm hành chính; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 16/3/2018 đến ngày 30/5/2018 được trả tự do. Bị cáo bị bắt truy nã từ ngày 17/8/2023 và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/8/2023 đến ngày xét xử, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Bị hại:

- Anh Nguyễn Xuân T, sinh nam 1992 Địa chỉ: Đội 14, xã Thanh T, huyện ĐB, tỉnh ĐB, có đơn xin xét xử vắng mặt mặt - Anh Bùi Văn S, sinh năm 1990 Địa chỉ: Đội T, xã Thanh A, huyện ĐB, tỉnh ĐB, có đơn xin xét xử vắng

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được triệu tập bổ sung: Ông Lò Văn D và anh Lò Văn Ch.

Địa chỉ: Bản Thín T, xã Mường Th, huyện T, tỉnh ĐB, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ 00 phút, ngày 19/02/2018, Lò Văn Q đến nhà Cà Văn M, sinh năm 1993, trú tại bản Thín T, xã Mường Th, huyện T để chúc Tết, sau đó Q và M cùng đến rủ Cà Văn T, sinh năm 1995 và Tòng Văn N, sinh năm 1997 đến nhà Cà Văn Q, sinh năm 1993 đều trú tại bản Thín T, xã Mường Th, huyện T để chúc Tết nhưng không có Q ở nhà. Sau khi uống rượu ở nhà Q xong, Q gọi điện thoại cho Q rủ Q đi thác Mường Th để tắm, Q rủ thêm Lò Văn M, sinh năm 1991, trú tại bản Thín T, xã Mường Th, huyện T đi cùng. Sau đó Q, Q, M, M, T và N cùng nhau vào thác nước tại bản Thín T, xã Mường Th, huyện T, tỉnh ĐB chơi, đến thác nước nhóm của Q gặp 02 (hai) nhóm người một nhóm người gồm 04 (bốn) người ở xã Mường Kh, huyện T và 01 nhóm người gồm 13 người (ở bản Phủ, huyện ĐB) trong đó có 02 phụ nữ đang tổ chức ăn uống tại chân thác nước. Q đi vào hỏi “Anh chị ở đâu về”, có người trả lời “ở bản Ph, ĐB về chơi” sau đó Q quay ra chỗ Q và mọi người đang đứng rồi nghe điện thoại người nhà gọi đến, nghe điện thoại xong thì Q nghe Q hỏi mọi người “đánh bọn kia hay là đi về” Q không nói gì. Lúc đó nhóm người ở bản Ph, huyện ĐB dọn đồ đạc đi về qua chỗ nhóm của Q đang đứng. Lò Văn Q nhìn thấy người mặc áo khoác màu đỏ trong nhóm người ở bản Ph, huyện ĐB cầm dao trên tay, Q đi theo đến chỗ người đó và nói “Đưa dao đây, chúng mày cầm dao vào đây làm gì” thì người đó không nói gì và đưa dao cho người thấp béo đi trước. Q và cả nhóm tiếp tục đi theo nhóm người đó đến gần bãi cát thì Lò Văn Q hỏi người đang cầm gậy “cầm gậy đi làm gì”, người đó không nói gì, Q liền giật lấy gậy trên tay người đó rồi đi lên phía trước chặn lại. Lò Văn Q lao vào dùng tay phải tát vào mặt người mặc áo khoác đỏ và nói “Sao lại ném dao cho nhau” người đó không nói gì. Q quay sang người béo lùn cầm dao lúc trước và nói “Đưa dao đây”. Người đó trả lời “Vứt đi rồi”, Q nói “Chúng mày không đưa dao đây thì không ra đây được đâu”, “Nếu không đưa dao thì tao làm con chó”. Nhóm người bản Ph, huyện ĐB không nói gì, ngay lúc đó Lò Văn Q đẩy người béo lùn và người đó cũng đẩy lại Q và Quyết h “Anh em ơi”, sau đó cả hai nhóm xông vào đánh nhau, đánh nhau khoảng 02 phút thì Q, M chạy trước, M và N cũng bỏ chạy, chỉ còn một mình T đang bị hai người ở bản Ph, huyện ĐB giữ lại thấy thế Lò Văn Q nhảy vào kéo T chạy về nhà ông Cà Văn L, sinh năm 1971, trú tại bản Thín T, xã Mường Th, huyện T, tỉnh ĐB, lúc đó cũng có Q, M, N và M đang đứng ở sân nhà ông L, được khoảng mấy phút sau thì có Lò Văn Đ, sinh năm 1995, trú tại bản M (trước là bản Khai H), xã Mường Th và Lò Văn Ch, sinh năm 1991, trú tại bản M, xã Mường Th đến sân nhà ông L. Cà Văn Q mượn điện thoại của Lò Văn Q gọi cho Lò Văn H, sinh năm 1991, trú tại bản M, xã Mường Th đến. Khi thấy nhóm người của T đi ra đến bờ ruộng gần ao nhà anh Lò Văn Kh, sinh năm 1984, trú tại bản Thín T, xã Mường Th thì Lò Văn Q nghe thấy có người hô “Người ta đánh thằng T, thằng M vỡ đầu rồi, đánh chúng nó đi” sau đó Lò Văn Q nhặt một đoạn gậy gỗ, có chiều dài khoảng 90cm, đường kính khoảng 05cm tại đống củi nhà ông L. Lúc này Q, M, Đ mỗi người cũng cầm một đoạn gậy gỗ và đuổi đánh Bùi Văn S ở khu vực ruộng gần đó. Khi đuổi kịp S, M dùng gậy vụt vào lưng của S, Q dùng gậy vụt vào tay, chân và đùi S; Đ dùng gậy vụt vào lưng của S, Lò Văn Q dùng gậy vụt vào sau lưng của S. Sau đó S ngã xuống ruộng nhưng vẫn tiếp tục bỏ chạy. Lò Văn Q tiếp tục đuổi theo S và dùng tay phải cầm gậy vụt mạnh vào phía sau lưng của S nhưng không trúng, đoạn gậy vụt trúng bờ ruộng nên bị gãy làm đôi, Q vứt gậy và tiếp tục chạy đuổi theo S nhưng không kịp. Khi Lò Văn Q chạy ra khu vực đập tràn thì nhìn thấy Đ, M, C, H, Th đang đuổi đánh Nguyễn Xuân T, sinh năm 1992, trú tại thôn Hoàng Công Ch, xã Thanh T, huyện ĐB, tỉnh ĐB. Lò Văn Đ dùng gậy vụt vào đùi trái của T, Q dùng gậy vụt vào tay, vai, lưng của T, M dùng gậy vụt vào vai phải T, Lò Văn C dùng gậy vụt vào mông và đùi của T. Thấy vậy Lò Văn Q cũng xông vào dùng tay phải tát mạnh vào vùng mặt của T, sau khi thấy T gục xuống đang ngồi tựa lưng vào đập tràn thì Lò Văn Q hô “anh em ơi đừng đánh nữa” thì mọi người cũng dừng tay không đánh T nữa. Một lúc sau thì Lò Văn Q nghe có người hô “Công an đến” nên Q đã chạy về nhà thay quần áo rồi chạy lên rừng trốn, đến ngày 21/02/2018 Lò Văn Q bị triệu tập đến Công an huyện T để làm việc.

Quá trình giải quyết vụ án ngày 24/7/2018 Lò Văn Q đã được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, tuy nhiên sau đó Lò Văn Q đã bỏ trốn khỏi địa phương. Quá trình lẩn trốn Q đã trốn sang Trung Q sinh sống và lao động. Ngày 17/8/2023 bộ đội Biên phòng Trung Q đã bàn giao Lò Văn Q cho Đồn biên phòng cửa khẩu quốc tế Tà L, thị trấn Tà L, huyện Quảng H, tỉnh Cao B và Lò Văn Q bị tổ công tác thuộc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T và Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cao B bắt theo quyết định truy nã.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 23/TgT ngày 26/02/2018 của Trung tâm Pháp y - Sở Y tế tỉnh ĐBiên, kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên cho Nguyễn Xuân T hiện tại là 16 % (Mười sáu phần trăm) Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 21/TgT ngày 26/02/2018 của Trung tâm Pháp y - Sở Y tế tỉnh ĐB, kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên cho Bùi Văn S hiện tại là 3% (Ba phần trăm).

Tại phiên tòa, bị cáo cũng thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố: Do tuổi trẻ, bồng bột nhận thức về pháp luật còn hạn chế bị cáo đã có hành vi dùng gậy gỗ cùng đồng bọn gây thương tích cho bị hại Bùi Văn S tỷ lệ thương tích là 3%, và cùng đồng bọn gây thương tích cho Nguyễn Xuân T với tỷ lệ là 16%. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn thật thà khai báo.

Tại đơn xin xét xử vắng mặt các bị hại có ý kiến trình bày: Các bị hại giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra. Vì lý do cá nhân anh Bùi Văn S, anh Nguyễn Xuân T đều xin xét xử vắng mặt. Về trách nhiệm dân sự, các bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm. Về phần hành phạt: Đều đề nghị Tòa án xét xử bị cáo Lò Văn Q theo quy định của pháp luật.

Người có nghĩa vụ liên quan ông Lò Văn D là bố bị cáo và anh Lò Văn Nh là anh trai bị cáo trình bày: Ông Cà Văn D đã tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ năm 1973, quá trình tham gia kháng chiến đã được Bộ Quốc Phòng cấp giấy chứng nhận đeo Huân Chương, được tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang, hiện nay ông đang được hưởng trợ cấp ưu đãi người có công, đề nghị HĐXX xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật. Anh Lò Văn Ch là anh trai bị cáo đã đứng ra bồi thường thay cho các bị cáo số tiền 43.500.000 đồng, anh không yêu cầu bị cáo Lò Văn Q phải trả lại cho anh số tiền trên.

Tại bản Cáo trạng số: 163/CT-VKSTG ngày 23/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiáo đã truy tố bị cáo về tội: "Cố ý gây thương tích" quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự; Điều 38; điều 17, Điều 58; điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lò Văn Quyết từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù về tội: “Cố ý gây thương tích".

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm Đề nghị chấp nhận việc các bị hại đều không yêu cầu bồi thường gì thêm Bị cáo không bào chữa cho hành vi phạm tội của mình, hoàn toàn nhất trí với nội dung bản Cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có quan điểm tranh luận.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét hành vi của bị cáo bị truy tố: Khoảng hơn 14 giờ ngày 19/02/2018 tại khu vực bản Thín T xã Mường Th, huyện T, tỉnh ĐB bị cáo Lò Văn Q đã cùng Lò Văn Đ, Cà Văn M, Cà Văn Q, Lò Văn C đã có hành vi dùng hung khí nguy hiểm (gậy gỗ) đánh bị hại Bùi Văn S gây thương tích cho Bùi Văn S tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 3% và Lò Văn Q cùng với Lò Văn C, Cà Văn M, Cà Văn Q, Lò Văn Đ đã có hành vi đánh Nguyễn Xuân T gây thương tích cho Nguyễn Xuân T tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 16 % Hành vi của bị cáo được chứng minh bằng biên bản bắt người đang bị truy nã bút lục số 01; biên bản khám nghiệm hiện trường (BL 73-74); Sơ đồ, bản ảnh hiện trường (BL số 75-79); Biên bản ghi lời khai, bản tự khai, biên bản hỏi cung bị cáo Lò Văn Q; biên bản ghi lời khai của bị hại Nguyễn Xuân T (BL số 131-132); Biên bản ghi lời khai của bị hại Bùi Văn S (BL số 135-136); Biên bản ghi lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Cà Văn Q (BL 154-157); Biên bản ghi lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Cà Văn M (BL 160-163); Biên bản ghi lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Lò Văn Đ (BL 166-169) và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và quá trình thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay. Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội:“Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền được pháp luật bảo vệ về sức khỏe của người khác, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Từ những phân tích trên, HĐXX khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiáo truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

[2]. Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Đây là vụ án có tính chất đồng phạm, bị cáo Lò Văn Q là người khởi xướng, cũng đồng thời là người thực hành tích cực hành vi cố ý gây thương tích cho các bị hại. Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự với mức hình phạt từ 02 năm đến 06 năm tù, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng.

[3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo Lò Văn Q sinh ra và lớn lên tại huyện T, tỉnh ĐB. Bị cáo không có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng nào. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Đại diện gia đình bị cáo Lò Văn Q là Lò Văn Ch đã đứng ra bồi thường cho các bị hại Bùi Văn S và Nguyễn Xuân T số tiền là 43.500.000 đồng, đây là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bố đẻ bị cáo Lò Văn Q là ông Lò Văn D được bộ Quốc Phòng cấp giấy chứng nhận đeo Huân chương, đã được thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang, ông D là người có công với cách mạng đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

HĐXX xem xét hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo để có mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nhưng nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên cần được chấp nhận.

[4]. Về xử lý vật chứng: Ngày 27/3/2018, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã ra thông báo truy tìm vật chứng đối với đoạn gậy gỗ mà Lò Văn Q dùng để đánh gây thương tích cho Bùi Văn S nhưng không tìm được.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, 585, 587, 590 Bộ luật dân sự các bị hại Bùi Văn S và Nguyễn Xuân T đều tự nguyện không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm gì khác. Anh Lò Văn Ch cũng không yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền anh đã đứng ra bồi thường thay cho bị cáo, xét đây là sự tự nguyện của các bị hại và anh Lò Văn Ch, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6]. Các vấn đề liên quan khác: Đối với Cà Văn Q, Cà Văn M, Lò Văn Đ đã bị Tòa án nhân dân huyện T G, tỉnh ĐB đưa ra xét xử theo bản án số 93/2019/HSST ngày 31/10/2019. Đối với Lò Văn C đã bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh ĐB đưa ra xét xử theo bản án số 124/2023/HSST ngày 28/8/2023.

Đối với Lò Văn H và Lò Văn Th quá trình điều tra cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng Lò Văn H và Lò Văn Th hiện tại không có mặt tại địa phương, quá trình điều tra sau này sẽ xác minh, làm rõ nếu có căn cứ thì xử lý theo quy định pháp luật, HĐXX xét không đề cập xem xét giải quyết.

[7]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn thuộc diện được miễn án phí, có đơn xin miễn án phí, HĐXX miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[8]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiáo, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, các bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự; Căn cứ khoản 1 Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:

1. Về tội danh: Bị cáo Lò Văn Q phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

2. Mức hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn Q: 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù. Được khấu trừ thời gian tạm giam trước đó là 76 ngày (02 tháng 16 ngày). Bị cáo còn phải chấp hành 02 (Hai) năm 14 (Mười bốn) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt truy nã, ngày 17/8/2023.

3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, 585, 587, 590 Bộ luật dân sự chấp nhận việc các bị hại Bùi Văn S và Nguyễn Xuân T đều không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm gì khác. Chấp nhận việc anh Lò Văn Ch không yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền anh đã đứng ra bồi thường thay cho bị cáo.

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 28/11/2023. Các bị hại Bùi Văn S, Nguyễn Xuân T vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo phần Bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 28/11/2023./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 25/2023/HS-ST về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:25/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tủa Chùa - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;