TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 25/2023/DS-ST NGÀY 16/05/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Trong ngày 16 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 210/2022/TLST-DS ngày 21 tháng 12 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử s ố 44/2023/QĐXXST-DS ngày 10/4/2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2023/QĐST-DS ngày 28/4/2023 giữa các đương sự:
+ Nguyên đơn:
1. Ông Phạm Văn H, sinh năm 1979
2. Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1981 Đều địa chỉ: thôn C, xã H, huyện Y, tỉnh Bắc Giang (Bà H1 có mặt, ông H có đơn xin xét xử vắng mặt)
+ Bị đơn:
1. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1968
2. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1966 Đều địa chỉ: thôn T, xã D, thành phố B, tỉnh Bắc Giang (Ông C có mặt, bà L vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 29/9/2020, bản tự khai và quá trình tố tụng tại Tòa án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn trình bày: Vợ chồng ông bà có cửa hàng bán cám vịt tại địa phương. Năm 2017 - 2018, vợ chồng ông Nguyễn Văn C, bà Nguyễn Thị L có đặt vấn đề mua cám đề về nuôi vịt, phục vụ công việc chăn nuôi gia đình, ông bà đã đồng ý. Sau đó, hai bên thống nhất giao dịch mua bán cám với nhau. Tổng khối lượng cám đã bán cho ông C, bà L thì vợ chồng ông bà không rõ. Mỗi lần bán cám, các bên không thanh toán ngay mà ghi lại vào sổ và ông C, bà L hẹn bán được vịt sẽ thanh toán tiền cám. Đến ngày 06/12/2020, các bên dừng giao dịch mua bán cám với nhau. Quá trình giao dịch ông C, bà L mới thanh toán được một phần tiền cám. Ngày 01/12/2021, các bên chốt lại số tiền nợ cám, theo sổ sách ông C bà L xác nhận còn nợ 1.363.455.000 đồng và hứa trả số tiền trên trước ngày 31/12/2021. Tuy nhiên từ đó đến nay ông C, bà L không trả được cho vợ chồng ông bà số tiền nợ cám trên. Nay ông bà yêu cầu ông C, bà L phải trả cho vợ chồng ông bà số tiền còn nợ là 1.363.455.000 đồng, không yêu cầu lãi suất.
* Tại Biên bản lay lời khai cũng như tại phiên toà bị đem là ông Nguyễn Văn C trình bày: Ông xác nhận, ông đại diện gia đình đứng ra mua cám của vợ chồng ông H, bà H1 từ khoảng năm 2017 đến năm 2021 để chăn nuôi vịt, phát triển kinh tế gia đình. Ông không nhớ đã lấy số lượng cám, các loại cám của ông H, bà H1 như thế nào vì thời gian đã lâu. Mỗi lần lấy cám, các bên không thanh toán cho nhau ngay mà ghi vào sổ theo dồi của ông H, bà H1; sau đó, đến kỳ bán vịt thì sẽ thanh toán cho nhau. Hiện tại ông cũng không nhớ đã thanh toán cho ông H, bà H1 bao nhiêu tiền cám và số tiền nợ cám cụ thể ông cũng không nhớ rõ. Ông Cũng đã được xem bản gốc nội dung chốt nợ ngày 01/12/2021 và xác nhận chữ viết là của bà H1 còn chữ ký “C:, “Nguyễn Văn C” là của ông. Ông xác nhận còn nợ tiền cám của ông H, bà H1. Nay bà H1, ông H yêu cầu vợ chồng ông trả số tiền 1.363.455.000 đồng thì hiện tại kinh tế gia đình khó khăn, làm ăn thua lỗ nên vợ chồng ông xin trả dần số tiền trên.
+ Tòa án đã tiến hành giao thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập và thông báo về phiên hòa giải cho bà Nguyễn Thị L đúng theo quy định của pháp luật, nhưng bà L không đến Tòa án để viết bản tự khai và hòa giải.
+ Ngày 28/4/2023, Tòa án mở phiên tòa nhưng bị đơn bà Nguyễn Thị L vắng mặt lần thứ nhất không Có lý do, Tòa án hoãn phiên tòa.
+ Tại phiên tòa nguyên đơn ông Phạm Văn H có đơn xin vắng mặt, bị đơn bà Nguyễn Thị L tiếp tục vắng mặt không có lý do.
+ Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:
- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và của HĐXX tại phiên tòa đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định về quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn H, bà Nguyễn Thị H1 Đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, Điều 147, Khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 430, Điều 431, khoản 1 Điều 433, Điều 440 Bộ luật dân sự; Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn H, bà Nguyễn Thị H1 buộc ông Nguyễn Văn C, bà Nguyễn Thị L phải trả ông Phạm Văn H, bà Nguyễn Thị H1 số tiền còn nợ là 1.363.455.000 đồng - Về án phí: ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị L phải chịu 52.903.650 đồng án phí DSST.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
* Về tố tụng:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Tại đơn khởi kiện, nguyên đơn ông Phạm Văn H, bà Nguyễn Thị H1 khởi kiện yêu cầu bị đơn ông Nguyễn Văn C, bà Nguyễn Thị L trả số tiền còn nợ theo giấy chốt nợ đề ngày 01/12/2021, do ông C bà L đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, không trả tiền như đã thoả thuận. Khi thụ lý vụ án, căn cứ vào đơn khởi kiện và tài liệu do nguyên đơn cung cấp, Tòa án xác định quan hệ tranh chấp là “Kiện đòi tài sản”. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà các đương sự đều thừa nhận số tiền bị đơn nợ nguyên đơn là tiền mua thức ăn chăn nuôi. Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình giải quyết, lời khai của nguyên đơn, bị đơn, Điều 430 Bộ luật dân sự, khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa”.
[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn có địa chỉ thường trú tại thành phố B. Do vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[3] Về sự vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn ông H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn bà L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự.
* Về nội dung:
[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn trả số tiền mua thức ăn chăn nuôi còn nợ. Hội đồng xét xử thấy rằng: Căn cứ cho yêu cầu khởi kiện nguyên đơn đưa ra là sổ mua bán cám. Trong lời khai của mình, ông C khẳng định gia đình trước đây có chăn nuôi gà, lợn nên có mua cám của gia đình ông H, bà H1 và thừa nhận còn nợ lại tiền cám của ông H, bà H1 là 1.363.455.000 đồng đồng như sổ mua bán cám mà bà H1 đã xuất trình.
Đối với yêu cầu đòi nợ của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Việc các bên có giao dịch mua bán thức ăn chăn nuôi với nhau là đúng sự thật. Sau khi kết thúc việc mua bán các bên đều xác nhận có việc thanh toán và chốt nợ với nhau. Ông C xác nhận còn nợ tiền cám của gia đình ông H, bà H1 là 1.363.455.000 đồng. Do đó yêu cầu khởi kiện đòi tiền cám còn của ông H, bà H1 đối với ông C, bà L là có căn cứ, được chấp nhận.
[5] Về án phí: Yêu cầu của ông H, bà H1 được chấp nhận, do vậy ông C, bà L phải chịu án phí dân sự là phù hợp với quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Hoàn trả ông H, bà H1 tiền tạm ứng án phí đã nộp.
[6] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 39; Điều 147; Khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ các Điều 430, Điều 431, khoản 1 Điều 433, Điều 440 Bộ luật dân sự.
Căn cứ Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn H và bà Nguyễn Thị H1.
Buộc ông Nguyễn Văn C, bà Nguyễn Thị L phải trả cho ông Phạm Văn H và bà Nguyễn Thị H1 số tiền 1.363.455.000 đồng (Một tỷ ba trăm sáu mươi ba nghìn bốn trăm năm mươi lăm đồng) 2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị L phải chịu 52.903.650 đồng (Năm mươi hai triệu chín trăm linh ba nghìn sáu trăm năm mươi đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
- Hoàn trả ông Phạm Văn H, bà Nguyễn Thị H1 số tiền 26.451.825 đồng (Hai mươi sáu triệu bốn trăm năm mươi mốt nghìn tám trăm hai mươi lăm đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0001977 ngày 20/12/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Giang.
3. Về lãi suất chậm thi hành án: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết bản án.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2- Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7, 7a, 7b và 9 - Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 - Luật thi hành án dân sự.
Bản án 25/2023/DS-ST về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
Số hiệu: | 25/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 16/05/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về