TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ LÁCH, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 25/2022/HS-ST NGÀY 26/09/2022 TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 26 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 19/2022/TLST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2022/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:
Võ Văn T; Sinh ngày: 17/03/1960 tại tỉnh Bến Tre.
- Tên gọi khác: Không có.
- Nơi cư trú: ấp VH, xã VT, huyện C, tỉnh Bến Tre.
- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.
- Nghề nghiệp: Làm vườn.
- Trình độ học vấn: 02/12; Con ông Võ Văn K (đã chết) và bà Nguyễn Thị Nh (đã chết), bị cáo có vợ là Đoàn Thị Bé N, sinh năm 1962, bị cáo có 04 người con lớn nhất sinh năm 1982, nhỏ nhất sinh năm 1994.
- Tiền án, tiền sự: Không có.
- Về nhân thân:
Từ nhỏ đến lớn sống chung với gia đình đi học lớp 02 nghỉ học ở nhà làm vườn. Ngày 21/3/2022 có hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ bị khởi tố điều tra.
Bị cáo Võ Văn T bị cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 23 ngày 23/6/2022 của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Chợ Lách trong giai đoạn điều tra; Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Chợ Lách và Tòa án nhân dân huyện Chợ Lách.
Bị cáo có mặt tại Tòa.
- Bị hại: Ông Trần Hải P, sinh năm 1979. Nơi cư trú: ấp AT, xã L, huyện C, tỉnh Bến Tre (đã chết).
- Người đại diện hợp pháp của bị hại ông Trần Hải P:
+ Ông Trần Hồng P1 sinh năm 1961.
+ Bà Trần Thị Bé N, sinh năm 1965.
+ Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1984 Cùng cư trú: ấp AT, xã L, huyện C, tỉnh Bến Tre Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Trần Hồng P1, sinh năm 1961. Nơi cư trú: ấp AT, xã L, huyện C, tỉnh Bến Tre.
+ Anh Võ Văn T2, sinh năm 1994. Nơi cư trú: ấp VH, xã VT, huyện C, tỉnh Bến Tre.
- Người đại diện theo ủy quyền của ông Trần Hồng P1, bà Trần Thị Bé N: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1984. Nơi cư trú: ấp AT, xã L, huyện C, tỉnh Bến Tre. Có mặt.
- Người làm chứng:
+ Ông Nguyễn Long H, sinh năm 1980. Nơi cư trú: ấp VH, xã VT, huyện C, tỉnh Bến Tre. Có mặt.
+ Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1984. Nơi cư trú: ấp VH, xã VT, huyện C, tỉnh Bến Tre. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 21/03/2022 bị cáo Võ Văn T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát:71C4-286.35 từ nhà ở ấp VH, xã VT, huyện C, tỉnh Bến Tre đi Chợ Cái Mơn thuộc xã Vĩnh Thành. Khi điều khiển xe lưu thông trên lộ bê tông ấp Vĩnh Hiệp (lộ Bằng Lăng) gần đến ngã ba giao nhau với lộ liên xã Vĩnh Thành và xã Tân Thiềng (lộ Hàng Xoài), bị cáo điều khiển xe chuyển sang lề trái của lộ Bằng Lăng, chạy cặp lề trái đến ngã ba liền rẽ trái ra lộ Hàng Xoài để chạy về hướng Chợ Cái Mơn. Lúc này, Trần Hải P điều khiển xe mô tô biển kiểm soát:71S8-5805 lưu thông trên lộ liên xã hướng từ Chợ Cái Mơn chạy đến, do bị cáo rẽ trái bất ngờ nên P không tránh kịp dẫn đến hai xe va chạm nhau. Tai nạn xảy ra Trần Hải P tử vong tại hiện trường, bị cáo Võ Văn T không bị thương.
Theo biên bản khám nghiệm hiện trường lúc 16 giờ 30 phút ngày 21/03/2022 của Công an huyện Chợ Lách xác định được.
Mặt đường bê tông rộng 3,50m, không có vạch kẻ tim đường.
Hiện trường đo vẽ theo hướng từ xã Vĩnh Thành đến xã Tân Thiềng. Lấy mép đường bên trái làm mép đường chuẩn.
Trên hiện trường để lại nhiều dấu vết; dấu vết chính như sau:
-Vị trí 1 là vết hằn nằm ở mặt đường có kích thước 0,01m x 0,02m điểm gần nhất cách mép đường bên trái theo hướng khám nghiệm là 3,55m.
-Vị trí 2 là xe mô tô BKS:71C4-286.35. Trục bánh trước cách mép đường bên trái theo hướng khám nghiệm là 2,75m, trục bánh sau cách mép đường bên trái là 3,58m, cách điểm gần nhất của (1) là 0,15m.
-Vị trí 3 là vết chà màu đen, kích thước 0,65 x 0,04m. Điểm đầu vết chà cách mép đường bên trái theo hướng khám nghiệm là 2,62 m, cách điểm gần nhất số (1) là 0,90m cách trụ điện số 476CL/174/08 là 7,65m, có điểm cuối cách mép đường bên trái là 2,47, cách trục bánh trước (2) là 0,40m.
-Vị trí 4 là gương chiếu hậu, điểm gần nhất cách mép đường bên trái là 3,55m, cách trục sau(2) là 0,15m.
-Vị trí 5 là vết cày nằm trên mặt đường có kích thước 1,05 x 0,01m. Điểm đầu cách mép đường bên trái là 1,70m, cách điểm cuối số (3) là 3,20m. Điểm cuối cách mép đường bên trái là 2,10m.
-Vị trí 6 là vết cày nằm trên mặt đường có kích thước 0,90 x 0,01m. Điểm đầu cách mép đường bên trái là 1,75m, cách điểm cuối số (5) là 0,90m. Điểm cuối cách mép đường bên trái là 2,00m.
-Vị trí 7 là xe mô tô BKS:71S8-5805. Trục bánh trước cách mép đường bên trái theo hướng khám nghiệm là 1,50m, cách điểm đầu (6) là 0,50m, cách trục bánh trước số(2) là 4,10m, trục sau cách mép đường bên trái là 2,35m.
-Vị trí 8 là tử thi dài 1,70 nằm ngoài lề đường bên trái. Đỉnh đầu nằm ngay mép đường bên trái và cách điểm cuối(6) là 2,20m, bàn chân phải nằm ở ngay mép đường bên trái và cách điểm cuối(6) là 3,50m.
Khám xe mô tô BKS:71C4-286.35 có các dấu vết chính như sau:
-Gương chiếu hậu bên phải bị sức rời.
-Đèn xin đường bên phải ở phía trước và sau đang ở trạng thái hoạt động.
-Cung trước chắn bùn trước bị lệch tử phải sang trái xe.
-Mặt ngoài lốp xe trước bị chà xướt kích thước 20cmx05cm, điểm gần nhất cách số 7 trong dãy số 225-17 là 8cm.
-Mặt ngoài lốp xe trước phần bên trái và vành xe có nhiều vết trượt và hằn cách vòi bơm là 18cm.
-Vành xe trước bị cong biến dạng, điểm gần nhất cách vòi bơm là 22cm.
-Để chân trước bên trái phần đầu kim loại bị mài mòn.
-Phần đầu thanh gạt chân chóng đứng bị mài mòn kim loại.
Khám xe mô tô BKS:71S8-5805 có các dấu vết chính như sau:
-Gương chiếu hậu bên trái bị mất phần kính.
-Mặt ngoài lốp xe trước bị chà xướt kích thước 25cmx4cm, điểm gần nhất cách (2) trong dãy số 250-17 là 6cm.
-Cần hảm phanh chân bị bun sức rời.
-Ốp chụp lốc máy bên phải bị bể bun.
-Để chân trước bên trái phần đầu kim loại bị mài mòn.
-Để chân sau bên trái phần đầu bị mài mòn phần cao su và kim loại.
Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 53/TT ngày 29/03/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận: Trần Hải P -SN:1979-Nơi cư trú: ấp An Thạnh, xã Long Thới, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre chết do chấn thương sọ não gây vỡ xương hộp sọ, xuất huyết, tụ máu nội sọ và giập nhu mô não.
Theo kết luận giám định số 2962 ngày 17/06/2022 của Phân viện KHHS tại TP.Hồ Chí Minh:
1.Dấu vết phía trước xe mô tô biển số:71C4-286.35 (trượt xước, sạch bụi mặt lăn và má bên trái bánh trước; cong biến dạng vành bánh trước) có chiều từ mặt lăn vào tâm bánh xe phù hợp với dấu vết bên phải xe mô tô biển số 71S8-5805 (trượt xước, gãy rời cần đạp phanh; trược xước, nứt vỡ ốp lốc máy) có chiều từ trước về sau.
-Dấu vết trược xước, mài mòn các chi tiết bên trái xe mô tô biển số 71C4- 286.35 (để chân trước, thanh kim loại gạt chân chống đứng) có chiều từ trước về sau phù hợp va chạm với mặt đường.
-Dấu vết trược xước, mài mòn các chi tiết bên trái xe mô tô biển số 71S8- 5805 (má bên trái bánh trước, để chân trước, để chân sau) có chiều từ trước về sau, từ mặt lăn vào tâm bánh xe phù hợp va chạm với mặt đường.
2.Vị trí va chạm đầu tiên giữa hai phương tiện chiếu xuống mặt đường nằm trước đầu vết chà màu đen ký hiệu số 3, thuộc phần đường bên phải đường liên xã (lộ Hàng Xoài) hướng từ xã Vĩnh Thành đi xã Tân Thiềng.
Quá trình điều tra xác định Võ Văn T có giấy phép lái xe hạng A1, số AM 538888 cấp ngày 28/12/2009 có giá trị không thời hạn. Có thái độ thành khẩn khai báo, đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt.
Vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Lách tạm giữ 01 xe môtô biển kiểm soát 71C4-286.35; 01 xe mô tô biển kiểm soát 71S8-5805 và 01 giấy phép lái xe hạng A1, số AM 538888 cấp ngày 28/12/2009 mang tên Võ Văn T. Đã trả 01 xe mô tô biển kiểm soát 71S8-5805 cho chủ sở hữu.
Quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đồng ý bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 143.973.000 đồng (chi phí mai táng 93.973.000 đồng và tổn thất tinh thần 50.000.000 đồng) nhưng bị cáo chưa bồi thường.
Tại bản cáo trạng số 22/CT-VKSCL, ngày 23-8-2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Lách đã truy tố bị cáo Võ Văn T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
Kiểm sát viên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quan điểm cáo trạng đã truy tố và đề nghị:
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 17, 58, 38, 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Võ Văn T 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 02 năm đến 03 tính từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 26/9/2022.
Về trách nhiệm dân sự: áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 584, 585, 586, 591 Bộ luật dân sự đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo về việc bị cáo Võ Văn T đồng ý bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 80.000.000 đồng.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Lách đã giao trả 01 xe mô tô biển kiểm soát 71S8-5805 cho chủ sở hữu là ông Trần Hồng Phương vào ngày 15/8/2022.
- Tiếp tục tạm giữ 01 xe môtô biển kiểm soát 71C4-286.35để đảm bảo quá trình thi hành án.
- Trả cho bị cáo Võ Văn T 01 giấy phép lái xe hạng A1, số AM 538888 cấp ngày 28/12/2009 mang tên Võ Văn T.
Vật chứng của vụ án hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Lách theo Quyết định chuyển vật chứng số 17/QĐ - VKSCL ngày 23/8/2022.
- Tại phiên tòa bị cáo Võ Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện giống như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo; thừa nhận hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, về trách nhiệm dân sự bị cáo đồng ý bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 80.000.000 đồng và nói lời sau cùng là xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
- Người đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo; về trách nhiệm dân sự yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 80.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Chợ Lách, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Lách, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Về nội dung: Mặc dù được cấp giấy phép lái xe theo quy định nhưng khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 21/03/2022 ông Võ Văn T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát:71C4-286.35 lưu thông trên lộ Bằng Lăng (đường nhánh) khi gần đến ngã ba giao nhau với lộ liên xã lộ Hàng Xoài (đường chính), bị cáo điều khiển xe chuyển sang lề trái của lộ Bằng Lăng, chạy cặp lề trái đến ngã ba liền rẽ trái ra lộ Hàng Xoài để chạy về hướng Chợ Cái Mơn. Lúc này, Trần Hải P điều khiển xe mô tô biển kiểm soát:71S8-5805 lưu thông trên lộ liên xã hướng từ Chợ Cái Mơn chạy đến, do bị cáo rẽ trái bất ngờ nên Phong không tránh kịp dẫn đến hai xe va chạm nhau. Tai nạn xảy ra Trần Hải P tử vong tại hiện trường.
[3] Hành vi trên của bị cáo Võ Văn T đã phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.
1."Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a. Làm chết người.
….
Hội đồng xét xử xét thấy lời khai nhận của bị cáo có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa phù hợp với các chứng khác như: Biên bản khám ngiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi và kết luận giám định pháp y, lời khai của người làm chứng; cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó bị cáo Võ Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Lách truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đồng thời có đủ cơ sở kết luận bị cáo Võ Văn T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[4] Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến trật tự công cộng, trật tự an toàn giao thông là khách thể được pháp luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nghiêm cấm và bảo vệ. Đồng thời hành vi phạm tội của bị cáo còn gây thiệt hại về tính mạng cho người khác. Xét hành vi của bị cáo đã gây hậu quả nghiêm trọng; trong vụ án này lẽ ra bị cáo phải thấy trước và buộc phải thấy trước hậu quả nguy hiểm có thể xảy ra cho mình và người khác từ việc cẩu thả không tuân thủ các quy tắc an toàn khi điều khiển xe mô tô tham gia giao thông đường bộ nên đã gây tai nạn dẫn đến hậu quả chết người. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên phải gánh chịu trách nhiệm hình sự đối với hậu quả do hành vi của bị cáo đã trực tiếp gây ra. Xét mối quan hệ nhân quả của vụ án: việc bị cáo điều khiển xe mô tô tham gia giao thông mà không tuân thủ các quy tắc an toàn khi tham gia giao thông đường bộ là nguyên nhân trực tiếp và chủ yếu gây nên tai nạn.
[5] Xét về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.
[6] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn, bị hại cũng có phần lỗi do có uống rượu bia và không đội nón bảo hiểm khi tham gia giao thông, khi điều khiển xe mô tô đến ngã ba giao nhau giữa đường chính và đường nhánh nhưng thiếu quan sát, gia đình bị hại có yêu cầu giải nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự trong quá trình lượng hình cho bị cáo.
Bị cáo Võ Văn T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[7] Qua đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và các tình tiết cụ thể của vụ án Hội đồng xét xử xét thấy: bị cáo có nhân thân tốt, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bản thân bị cáo đang theo điều trị bị bệnh trong thời gian dài, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà chỉ cần áp dụng hình phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo. Đồng thời giao bị cáo cho chính quyền địa phương phối hợp cùng gia đình giám sát giáo dục bị cáo trong suốt thời gian chấp hành thử thách và cải tạo cũng đủ sức để giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội và đảm bảo được tính răn đe, phòng ngừa chung cho cộng đồng.
[8] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:
Tại phiên tòa đại diện hợp pháp của bị hại và bị cáo thống nhất các khoản bị cáo phải bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 80.000.000 đồng nên được Hội đồng xét xử ghi nhận.
Xét đề nghị về xử lý vật chứng của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên ghi nhận.
[9] Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp và có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[10] Về án phí hình sự, dân sự sơ thẩm bị cáo phải nộp theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Điều 23, 26 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí của Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm a, khoản 1 Điều 260; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tuyên bố: Bị cáo Võ Văn T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Xử phạt: Bị cáo Võ Văn T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 03 (Ba) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 26/9/2022.
Giao bị cáo Võ Văn T cho Ủy ban nhân dân Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre phối hợp cùng gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trong trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
2. Về trách nhiệm dân sự:
Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 584, 585, 586, 591 Bộ luật dân sự buộc bị cáo Võ Văn T bồi thường cho người đại diện hợp pháp của bị hại ông Trần Hồng P1, bà Trần Thị Bé N, bà Nguyễn Thị T 80.000.000 đồng .
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, có đơn yêu cầu của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Lách đã giao trả 01 xe mô tô biển kiểm soát 71S8-5805 cho chủ sở hữu là ông Trần Hồng Phương vào ngày 15/8/2022.
- Trả cho bị cáo Võ Văn T 01 giấy phép lái xe hạng A1, số AM 538888 cấp ngày 28/12/2009 mang tên Võ Văn T. Vật chứng của vụ án hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Lách theo Quyết định chuyển vật chứng số 17/QĐ - VKSCL ngày 23/8/2022.
- Tiếp tục tạm giữ 01 xe môtô biển kiểm soát 71C4-286.35 để đảm bảo thi hành án. Vật chứng của vụ án hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Lách theo Quyết định chuyển vật chứng số 17/QĐ - VKSCL ngày 23/8/2022.
4. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Điều 23, 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí của Tòa án bị cáo Võ Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 7.198.650 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn mười lăm ngày tính từ ngày tuyên án sơ thẩm bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại là ông P, bà N, bà T được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 25/2022/HS-ST tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 25/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Lách - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | đang cập nhật |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về