Bản án 25/2021/HS-ST ngày 28/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM TÂN, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 25/2021/HS-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 4 năm 2021 Hội trường xét xử TAND huyện Hàm Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 18/2021/TLST-HS ngày 29/3/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2021/QĐXXST-HS ngày 13/4/2021 đối với bị cáo:

NGUYỄN THỊ BÍCH T, (Tên gọi khác: Mười), sinh năm 1973 tại Bình Thuận;

HKTT: Thôn P, xã T1, huyện H, tỉnh B.

Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Nguyễn C (Chết) và bà Huỳnh Thị S (Chết);

Gia đình có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ 05;

Chồng: Thái Ngọc H1; Có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1993, con nhỏ nhất sinh năm 2000;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

Có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

+ Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1943 (Vắng mặt)

+ Ông Lê Văn Đ, sinh năm 1941 (Vắng mặt)

Cùng địa chỉ: Thôn G, xã T, huyện H, tỉnh B

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Bích T, sinh năm 1973; Thôn P, xã T1, huyện H, tỉnh B thường hay qua lại nhà bà Nguyễn Thị V tại Thôn G, xã T, huyện H, tỉnh B nên biết chỗ bà V cất giấu tiền. Vào khoảng 15h00’ ngày 10/12/2020 T đến phía sau nhà bà V hái rau muống thì nảy sinh ý định lấy trộm tiền. Thực hiện ý định, T quan sát trong nhà thấy không có ai để ý nên đã lẻn vào nhà bếp đi đến vị trí phía dưới bình gas lấy trộm 01 cái ví da bên trong có số tiền 27.000.000đ, T cầm ví ra phía sau chuồng gà lấy hết số tiền trong ví, bỏ lại ví rồi ra về. Đến khoảng 08h00’ ngày 11/12/2020 ông Lê Văn Đ là chồng bà V phát hiện ví da tại chuồng gà bên trong ví không có gì nên báo bà V, sau khi kiểm tra thì bà V phát hiện đã bị mất trộm tiền nên trình báo Công an xã T1. Đến ngày 12/12/2020 nghe tin lực lượng Công an đang điều tra vụ việc nên T đã tự nguyện mang số tiền 27.000.000đ đến trả lại cho bà V. Quá trình điều tra, T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã hoàn trả lại số tiền 27.000.000đ cho bị hại nên bị hại không có yêu cầu gì về phần dân sự.

Cáo trạng số 20/CT-VKS ngày 22/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Bích T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân đã truy tố và thống nhất với các điều khoản mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân đã viện dẫn trong Cáo trạng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân giữ quyền công tố luận tội và tranh luận đã phân tích hành vi phạm tội của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” như nội dung Cáo trạng, đồng thời xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ khi quyết định mức hình phạt đối với bị cáo. Đề nghị: Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Bích T từ 06 tháng đến 09 tháng tù cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách theo quy định.

* Ý kiến của bị cáo: Bị cáo đồng ý với nội dung và tội danh mà Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân đã truy tố, tuy nhiên xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử.

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Tân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến, hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai và các tài liệu chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án, đã có đủ cơ sở xác định:

Vào ngày 10/12/2020 bị cáo Nguyễn Thị Bích T đã lén lút đi vào nhà bếp của bà V, đến vị trí phía dưới bình gas lấy trộm 01 ví da bên trong có số tiền 27.000.000đ, sau đó T cầm ví da ra phía sau chuồng gà lấy hết số tiền trong ví rồi bỏ lại ví và ra về. Sau khi nghe tin Công an đang điều tra vụ việc Thảo đã tự nguyện mang số tiền 27.000.000đ trả lại cho bà V, tại Cơ quan điều tra T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại các biên bản ghi lời khai của bị cáo, bị hại; biên bản hỏi cung; lời khai bị cáo, bị hại tại phiên tòa đều thống nhất hành vi của bị cáo đúng như Cáo trạng đã nêu.

Bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác với giá trị là 27.000.000đ đồng, hành vi của bị cáo xâm phạm khách thể được Luật Hình sự bảo vệ là quyền sở hữu tài sản của công dân. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật

[3] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã hoàn trả lại số tiền 27.000.000đ cho bị hại, hiện nay bị hại không có yêu cầu gì về phần dân sự vì vậy HĐXX không xem xét.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi thực hiện hành vi phạm tội cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Đã trả lại tiền cho bị hại nên đã tự nguyện khắc phục hậu quả; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Bị hại đã có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Bị cáo Nguyễn Thị Bích T nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Nhưng với bản tính chây lười lao động, bị cáo đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Vì vậy cần phải dành cho bị cáo mức án tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện để răn đe đối với bị cáo cũng như phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét bị cáo có nhân thân tốt, có địa chỉ cư trú ổn định, rõ ràng; Có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điều 51 Bộ luật Hình sự; Trong thời gian thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú bị cáo đã chấp hành tốt và không có vi phạm gì. Do đó Hội đồng xét xử nghĩ không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mà chỉ cần giao cho chính quyền địa phương theo dõi, giám sát giáo dục bị cáo cũng đủ sức răn đe và giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Bích T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Bích T 06 (Sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (Mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án (28/4/2021).

Giao bị cáo Nguyễn Thị Bích T cho Ủy ban nhân dân xã T1, huyện H, tỉnh B giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người bị phạt tù được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Án phí: Áp dụng: Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Buộc bị cáo Nguyễn Thị Bích T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai, báo cho bị cáo có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định.

Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 25/2021/HS-ST ngày 28/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:25/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Tân - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;