TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 25/2021/HS-ST NGÀY 20/04/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Trong ngày 20 tháng 4 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 25/2021/TLST - HS ngày 07/4/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2021/QĐXXST - HS ngày 08 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo: Họ và tên: NGUYỄN Minh T, Sinh ngày 11 tháng 11 năm 1986;
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú + chỗ ở: Xóm 5, xã T, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 5/12. Con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1966; Con bà Bùi Thị Lh, Sinh năm 1965. Vợ: Nguyễn Thị N, sinh năm 1990. Có 02 con: con lớn, sinh năm 2010, con nhỏ, sinh năm 2019. Gia đình có 4 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình.
Tiền án: Không Tiền sự: có 01. Tại quyết định xử phạt vi phạm hành C số 0011554 ngày 10/02/2020 Công an xã T, huyện Đại Từ xử phạt T 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc. Chấp hành xong (nộp tiền phạt) ngày 30/12/2020.
Bị cáo không bị bắt tạm giữ, tạm giam. Hiện đang tại ngoại tại địa phương. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi NVLQ
+ Người làm chứng:
1. Ông Trần Văn H, sinh năm 1938. Địa chỉ: xóm 3, xã T, huyện Đại Từ, Thái Nguyên (Vắng mặt).
2. Trần Văn V, sinh năm 1979. Trú tại: Xóm 3, T, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên (Vắng mặt).
3. Đào Đức C, sinh năm 1975. Trú tại: Xóm L, xã P, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên (Có mặt).
4. Bùi Văn Đ, sinh năm 1998. Trú tại: Xóm Đ, xã P, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên (Vắng mặt).
5. Trần Đức M, sinh năm 1979. Trú tại: Xóm 4, xã T, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên (Có mặt).
6. Lê Văn Đ1, sinh năm 1998. Trú tại: Xóm 7, xã T, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên (Có mặt).
7. Lại Văn H, sinh năm 1975. Trú tại: Xóm 3, xã T, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên (Vắng mặt).
* Người chứng kiến: ông Hoàng Tiến C, sinh năm 1967. Trú tại: xóm 3, xã T, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 22 giờ 30 phút ngày 12/12/2020 nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc tại gia đình ông Trần Văn H, sinh năm: 1938, trú tại: xóm 3, xã T, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên có nhóm đối tượng đang đánh bạc được thua bằng tiền. Tổ công tác Công an xã T đã tiến hành kiểm tra và phát hiện tại gian bếp của nhà ông H có 07 đối tượng đang có hành vi đánh bạc dưới hình thức đánh liêng được thua bằng tiền gồm: Nguyễn M T, Trần Văn V, sinh năm: 1979, Lại Văn H, sinh năm: 1975 cùng trú tại: xóm 3, xã T, huyện Đại Từ; Đào Đức C, sinh năm: 1975, trú tại: xóm Lũng 1, xã P, huyện Đại Từ; Bùi Văn Đ, sinh năm: 1998, trú tại: xóm Đại Hà, xã P, huyện Đại Từ; Trần Đức M, sinh năm:
1979, trú tại: xóm 4, xã T, huyện Đại Từ; Lê Văn Đ1, sinh năm: 1998, trú tại:
xóm 7, xã T, huyện Đại Từ. Tổ công tác đã lập biên bản sự việc, thu giữ tại chiếu bạc số tiền 1.590.000 đồng, 52 quân bài tú lơ khơ đã qua sử dụng; 01 chiếu cói đã qua sử dụng kích thước 190x160cm; 01 chiếc chiếu nan tre cũ kích thước 187x149cm và đưa các đối tượng cùng vật chứng về Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đại Từ giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại cơ quan điều tra T, V, H, C, Đ, M, Đ1 cùng khai nhận như sau: Tối ngày 12/12/2020 sau khi ăn cơm ở nhà V xong thì T đi chơi. Đến khoảng 21 giờ 00 phút T quay lại nhà V. Lúc này tại nhà V có C, H, M, Đ đến chơi. V rủ T cùng mọi người chơi đánh bạc bằng hình thức đánh liêng được thua bằng tiền. T và cả nhóm đồng ý. Sau đó T cùng mọi người đi sang bếp nhà ông H (là bố đẻ của V) để đánh bạc (Vì nhà V đang xây nhà không có chỗ chơi đánh bạc). V lấy bộ bài tú lơ khơ có sẵn ở máy vò chè trong bếp nhà ông H rồi cả nhóm ngồi xuống 02 chiếc chiếu trải sẵn dưới sàn nhà bếp để đánh bạc. T và 05 người trên đánh bạc được khoảng 04 ván thì Đ1 đến tham gia đánh bạc. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày khi cả nhóm đang đánh bạc thì bị Tổ công tác Công an xã T, huyện Đại Từ kiểm tra, phát hiện lập biên bản sự việc, thu giữ vật chứng như nêu trên.
Cách thức chơi là một người trong nhóm chia cho mỗi người 03 quân bài, sau đó mỗi người chơi góp 10.000 đồng (mười nghìn đồng) gọi là “gà” rồi những người chơi kiểm tra 03 quân bài được chia và quy ước theo thứ tự: 03 quân bài giống nhau gọi là “sáp”, 03 quân bài liên tiếp nhau gọi là “liêng”, 03 quân bài có hình gọi là “ảnh”, sau đó người chơi xác định thắng thua theo thứ tự “sáp”, “liêng”, “ảnh”, nếu không ai có “sáp”, “liêng”, “ảnh” thì cộng 03 quân bài lại tính điểm, cao nhất là 09 điểm (các quân bài từ 10 đến K quy ước mỗi quân là 0 điểm).
Khi tham gia đánh bạc T sử dụng 200.000 đồng để đánh nhiều ván bạc; Đ sử dụng 260.000 đồng để đánh nhiều ván bạc; M sử dụng 200.000 đồng để đánh nhiều ván bạc; Đ1 sử dụng 530.000 đồng để đánh nhiều ván bạc; H sử dụng 200.000 đồng để đánh nhiều ván bạc; C sử dụng 100.000 đồng để đánh nhiều ván bạc; V sử dụng 100.000 đồng để đánh nhiều ván bạc và không ai nhớ thắng thua được bao nhiêu tiền.
Như vậy tổng số tiền 07 đối tượng sử dụng để đánh bạc là 1.590.000 đồng (Một triệu năm trăm chín mươi nghìn đồng).
Lời khai nhận của Nguyễn M T và các đối tượng khác phù hợp với nhau và phù hợp các tài liệu điều tra có trong hồ sơ vụ án như: Lời khai của những người làm chứng, biên bản sự việc, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
Vật chứng của vụ án là: 1.590.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam; 01 phong bì niêm phong ký hiệu B bên trong là 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân; 01 chiếc chiếu cói kích thước 190 x 160cm; 01 chiếc chiếu nan tre kích thước 187 x 149cm đang được bảo quản, lưu giữ tại kho vật chứng và tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đại Từ chờ xử lý.
Tại cáo trạng số 26/CT - VKSĐT ngày 05/4/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Nguyễn M T phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 BLHS.
Tại phiên tòa đại diện VKSND huyện Đại Từ giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị: áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i,s khoản 1 Điều 51; Điều 54 BLHS; xử phạt bị cáo Nguyễn M T mức án từ 03 đến 05 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Ngoài ra, còn đề nghị xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định.
Tại phần tranh luận: bị cáo không có ý kiến tranh luận. Nói lời sau cùng:
xin được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:
{1}. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điểu tra Công an huyện Đại Từ, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Từ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
{2.}Về căn cứ buộc tội:
Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn M T khai nhận. Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 12/12/2020, tại gian bếp của gia đình ông Trần Văn H trú tại xóm 3, xã T, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, Nguyễn M T là người đã bị xử phạt vi phạm hành C về hành vi đánh bạc đã cùng các đối tượng Trần Văn V, Lê Văn Đ1, Đào Đức C, Bùi Văn Đ, Lại Văn H, Trần Đức M đang thực hiện hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh liêng được thua bằng tiền thì bị Tổ công tác Công an xã T, huyện Đại Từ phát hiện, lập biên bản sự việc, thu giữ tại chiếu bạc 1.590.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam, 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân, 01 chiếc chiếu cói kích thước 190 x 160cm; 01 chiếc chiếu nan tre kích thước 187 x 149cm.
Như vậy, HĐXX có đủ cơ sở xác định hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS.
Nội dung điều luật quy định:
Điều 321 Bộ luật hình sự.
“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá... dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành C về hành vi này ... mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
{3}. Xét tính chất hành vi và vai trò phạm tội của bị cáo:
Tính chất hành vi đánh bạc của bị cáo thuộc trường hợp ít nguyên trọng. Bị cáo tham gia đánh bạc với vai trò thứ yếu, do bị rủ rê, lôi kéo với động cơ, mục đích giản đơn là cùng nhau Đánh bạc để góp tiền mua cháo ăn đêm. Thuộc trường hợp cấu thành định tội danh.
{4}. Xét tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là: "Người phạm tội thành khẩn khai báo" và "Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng" quy định tại điểm i,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo có ông nội được tặng thưởng huân chương kháng chiến chống mỹ cứu nước hạng nhì nên có thể xem xét cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.
{5}. Xét nhân thân của bị cáo thì thấy:
Bị cáo Nguyễn M T được sinh ra và lớn lên trong gia đình lao động thuần túy, được nuôi ăn học, có đầy đủ nhận thức về các việc làm đúng sai của bản thân. Tuy nhiên, do ham chơi nên mặc dù đã từng bị xử phạt hành C về hành vi đánh bạc chưa hết thời hiệu nhưng khi bị rủ rê, lôi kéo tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật. Lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp định tội danh về hành vi “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.
{6}. Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất hành vi, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thì thấy. Bị cáo Nguyễn M T là đối tượng đã bị xử phạt hành C về hành vi đánh bạc còn trong thời hạn.
Lần đánh bạc này thuộc trường hợp cấu thành định tội. Tuy nhiên, qua diễn biến nội dung vụ án thì thấy, bị cáo phạm tội do bị rủ rê, lôi kéo, thực hiện với vai trò thứ yếu; động cơ, mục đích phạm tội giản đơn (cùng đánh bạc để góp tiền mua gà nấu cháo ăn đêm), số lượng tiền tham gia đánh bạc không lớn (sử dụng 200.000đ để đánh bạc). Xét thấy quan điểm đề nghị của VKS tại phiên tòa là có cơ sở nên khi quyết định hình phạt, HĐXX cần cân nhắc, xem xét một cách khách quan để có mức hình phạt cho phù hợp, vừa đảm bảo tính nghiêm M của pháp luật vừa đảm bảo công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Về hình phạt bổ sung: xét thấy, bị cáo là lao động C trong gia đình, không có công ăn việc làm và thu nhập ổn định đồng thời phải nuôi 02 con nhỏ nên cần xem xét miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
{7}.Về vật chứng vụ án và các vấn đề có liên quan trong vụ án:
01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân; 02 chiếc chiếu; số tiền thu giữ của các đối tượng khi tham gia đánh bạc nhưng không đủ yếu tố cấu thành tội phạm. HĐXX xá định: 02 chiếc chiếu không còn giá trị sử dụng và ông Trần Văn H không có yêu cầu được nhận lại và bộ bài tú lơ khơ 52 quân là công cụ phương tiện phạm tội nên được tịch thu tiêu hủy; số tiền 1.590.000 thu giữ trên chiếu bạc là phương tiện, công cụ phạm tội cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
{8}. Về án phí: bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
{9}. Các nội dung có liên quan khác: Liên quan trong vụ án có Trần Văn V, Lê Văn Đ1, Đào Đức C, Bùi Văn Đ, Lại Văn H, Trần Đức M có hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh liêng cùng với bị cáo Nguyễn M T. Quá trình điều tra xác định số tiền các đối tượng sử dụng đánh bạc dưới 5.000.000 đồng. Các đối tượng chưa có tiền án, tiền sự nên Công an huyện Đại Từ đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành C theo quy định.
Qúa trình điều tra xác định khi T và các đối tượng đánh bạc tại gian bếp nhà ông Trần Văn H và bà Bùi Thị Đoàn nhưng ông H, bà Đoàn đã già yếu, không biết việc các đối tượng đánh bạc tại gia đình mình nên cơ quan điều tra Công an huyện Đại Từ không xem xét xử lý.
Vì các lẽ nêu trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: bị cáo Nguyễn M T phạm tội “Đánh bạc”;
Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 54 BLHS;
Xử phạt: bị cáo Nguyễn M T 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày đi chấp hành hình phạt.
Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
* Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 BLTTHS; Điều 47 BLHS;
+ Tịch thu sung công quỹ số tiền: 1.590.000đ;
+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân, 02 chiếc chiếu (01 chiếc chiếu nan tre KT 187 x 149 cm, 01 chiếc chiếu cói KT 190 x 160 cm).
(Tình trạng, đặc điểm của vật chứng như trong mô tả tại Quyết định chuyển vật chứng số 21/QĐ - VKS ngày 05/4/2021 của VKSND huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên cùng các biên bản giao nhận vật chứng kèm theo).
* Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS, Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 về mức thu, miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn M T phải chịu 200.000đ án phí Hình sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước.
Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo và người có QLNVLQ biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án đối với người có mặt và kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định đối với người vắng mặt.
Bản án 25/2021/HS-ST ngày 20/04/2021 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 25/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đại Từ - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về