Bản án 25/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 25/2021/HNGĐ- ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số 232/2020/TLST- HNGĐ ngày 06 tháng 11 năm 2020 về việc ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 15/2021/QĐST-HNGĐ ngày 02/4/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị T, sinh năm 1987 Địa chỉ: Thôn Thanh Phúc, xã Đ, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Minh Đ, sinh năm 1976 Địa chỉ: Thôn 1, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.

(Chị Hoàng Thị T có đơn đề nghị vắng mặt, anh Nguyễn Minh Đ vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 05/11/2020 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Hoàng Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị T và anh Nguyễn Minh Đ chung sống với nhau từ năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh vào ngày 10/3/2008. Trước khi chung sống với nhau hai người có tìm hiểu nhau khoảng 3 tháng. Việc chung sống là hoàn toàn tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và được hai bên gia đình đồng ý. Quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2011 sau đó xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân của mâu thuẫn là do anh Đ chơi cờ bạc, rượu chè về nhà còn đánh đập vợ, không chăm lo làm ăn, không quan tâm chăm sóc gia đình. Vợ chồng đã nhiều lần hòa giải nhưng không được nên đến cuối năm 2011 thì chị T về quê ở Hà Tĩnh sinh sống và làm việc. Vợ chồng cũng sống ly thân từ cuối năm 2011 cho đến nay, quá trình sống ly thân hai người không quan tâm chăm sóc gì đến nhau, phần ai nấy sống. Nay tình cảm vợ chồng không còn do vậy chị Hoàng Thị T yêu cầu giải quyết được ly hôn với anh Nguyễn Minh Đ.

Về con chung: Chị Hoàng Thị T trình bày quá trình chung sống chị và anh Nguyễn Minh Đ có 01 người con chung tên là Nguyễn Minh Hậu, sinh ngày 11/6/2009. Từ khi chị T về quê ở Hà Tĩnh sinh sống thì cháu Hậu ở cùng mẹ, hiện nay cháu Hậu đang học tại Trường THCS Đồng Lạng, xã Đ, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh. Ly hôn chị Hoàng Thị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hậu cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, chị Hoàng Thị T không yêu cầu anh Nguyễn Minh Đ phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị T trình bày chị và anh Nguyễn Minh Đ không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị Hoàng Thị T trình bày chị và anh Nguyễn Minh Đ không có nợ chung nên không yêu cầu giải quyết.

Tòa án nhân dân huyện B đã triệp tập hợp lệ anh Nguyễn Minh Đ nhiều lần để làm việc về nội dung khởi kiện của chị T nhưng anh Đ đều vắng mặt không có lý do nên không có lời khai nào.

Tòa án đã tiến hành mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 19/02/2021 nhưng không được do chị T có đơn đề nghị vắng mặt và anh Đ đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do, đồng thời chị T có đơn yêu cầu không tiến hành hòa giải nữa mà giải quyết vụ án theo pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do.

Viện kiểm sát nhân dân huyện B tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và về việc giải quyết vụ án như sau: Đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Hoàng Thị T và anh Nguyễn Minh Đ được ly hôn. Về con chung cần giao 01 con chung là Nguyễn Minh Hậu, sinh ngày 11/6/2009 cho chị Hoàng Thị T tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, anh Nguyễn Minh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung không xem xét, về án phí đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

I. Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn anh Nguyễn Minh Đ đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

II. Về nội dung vụ án:

{1} Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị T và anh Nguyễn Minh Đ chung sống với nhau từ năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh vào ngày 10/3/2008. Trước khi chung sống với nhau hai người có tìm hiểu nhau khoảng 3 tháng. Việc chung sống là hoàn toàn tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và được hai bên gia đình đồng ý. Quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2011 sau đó xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân của mâu thuẫn là do anh Đ chơi cờ bạc, rượu chè về nhà còn đánh đập vợ, không chăm lo làm ăn, không quan tâm chăm sóc gia đình. Vợ chồng đã nhiều lần hòa giải nhưng không được nên đến cuối năm 2011 thì chị T về quê ở Hà Tĩnh sinh sống và làm việc. Vợ chồng cũng sống ly thân từ cuối năm 2011 cho đến nay, quá trình sống ly thân hai người không quan tâm chăm sóc gì đến nhau, phần ai nấy sống. Nay tình cảm vợ chồng không còn, chị T yêu cầu được giải quyết ly hôn.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ nhưng anh Nguyễn Minh Đ không có mặt nên hòa giải không thành. Qua xác minh tại chính quyền địa phương thì vợ chồng chị T anh Đ có xảy ra mâu thuẫn do anh Đ có uống rượu và không chăm lo cho gia đình, vợ chồng có cãi vã nhau. Đến cuối năm 2011 chị T bỏ về quê sinh sống, còn anh Đ đã chung sống với người phụ nữ khác. Xét thấy hôn nhân đã có mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, hai người đã sống ly thân từ cuối năm 2011 đến nay, không hàn gắn tình cảm được nên cần căn cứ vào Điều 5, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xử chị Hoàng Thị T và anh Nguyễn Minh Đ được ly hôn là có căn cứ và đúng pháp luật.

{2} Về con chung: Xét lời khai của chị Hoàng Thị T, căn cứ vào giấy khai sinh chị Hoàng Thị T nộp cho Tòa án thì quá trình chung sống chị T và anh Đ có 01 người con chung tên là Nguyễn Minh Hậu, sinh ngày 11/6/2009. Chị T trình bày từ khi chị T về quê ở Hà Tĩnh đến nay chị T nuôi dưỡng con chung. Quá trình chị T chăm sóc cháu Hậu thì cháu Nguyễn Minh Hậu phát triển bình thường học tập tại Trường THCS Đồng Lạng, xã Đ, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh, cháu Hậu còn có đơn nguyện vọng được ở với mẹ, chị Hoàng Thị T có việc làm, có thu nhập ổn định và có đủ điều kiện nuôi con. Xét nguyện vọng nuôi con và giao con của chị Hoàng Thị T là có cơ sở và đúng pháp luật, vì vậy để đảm bảo sự phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức của con, Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 70, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 tiếp tục giao con chung là Nguyễn Minh Hậu, sinh ngày 11/6/2009 cho chị Hoàng Thị T tiếp tục nuôi dưỡng đến khi con chung đủ 18 tuổi là phù hợp. Chị Hoàng Thị T không yêu cầu anh Nguyễn Minh Đ cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét giải quyết.

{3} Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị T trình bày quá trình chung sống chị và anh Nguyễn Minh Đ không có tài sản chung và không có yêu cầu giải quyết do vậy Hội đồng xét xử không đề cập đến.

{4} Về nợ chung: Chị Hoàng Thị T trình bày quá trình chung sống chị và anh Nguyễn Minh Đ không có nợ chung nên không có yêu cầu gì do vậy Hội đồng xét xử không đề cập đến.

{5} Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, áp dụng Nghị quyết 326/2016/NQ- UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Đây là vụ án không có giá ngạch, cần buộc chị Hoàng Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 235, Điều 266 Bộ Luật tố tụng dân sự; Điều 5, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, áp dụng Nghị quyết 326/2016/NQ- UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị T đối với anh Nguyễn Minh Đ về việc “Xin ly hôn”.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Hoàng Thị T và anh Nguyễn Minh Đ được ly hôn.

2. Về con chung: Buộc anh Nguyễn Minh Đ phải giao 01 con chung là Nguyễn Minh Hậu, sinh ngày 11/6/2009 cho chị Hoàng Thị T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con chung đủ 18 tuổi (đã giao con). Anh Nguyễn Minh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

“Quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình”.

3. Về án phí: Buộc chị Hoàng Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị Hoàng Thị T đã nộp tại biên lai nộp tiền số 0004671 ngày 06/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Lâm Đồng.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 25/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:25/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;