Bản án 25/2021/HNGĐ-ST ngày 22/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 25/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 22 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Tân Uyên tiến hành phiên tòa sơ thẩm công khai xét xử vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 40/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 01 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa 28/2021/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị T, sinh năm 1981; địa chỉ thường trú: Ấp a, xã T, huyện T1, tỉnh S; địa chỉ tạm trú: Tổ 2, khu phố B, phường C, thị xã U, tỉnh B; Có mặt.

- Bị đơn: Ông Lê Thanh Đ, sinh năm 1979; địa chỉ: Ấp a, xã T, huyện T1, tỉnh S; địa chỉ tạm trú: Tổ 2, khu phố B, phường C, thị xã U, tỉnh B; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 30 tháng 12 năm 2020; các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn – bà Lê Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông Đ tự nguyện tìm hiểu được và chung sống với nhau vào năm 2003 và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 39, quyển số 2 ngày 09/5/2008 tại Ủy ban nhân xã Tân Hải, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Trong thời gian chung sống, vợ chồng thường phát sinh mâu thuẫn do ông Đ thường xuyên đánh bạc, uống rượu và thường có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, không chăm lo gia đình. Hiện bà T và ông Đ không còn chung sống với nhau 03 năm nay nên tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, do đó, bà T khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Đ.

+ Về con chung: Có một con chung tên Lê Trọng P, sinh ngày 30/10/2003. Khi ly hôn, bà T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Lê Thanh Đ đã được tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác nhưng ông Đ không tham gia trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên tham gia phiên toà phát biểu quan điểm như sau:

- Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị T, cụ thể như sau:

+ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho bà Lê Thị T được ly hôn với ông Lê Thanh Đ.

+ Về con chung: đề nghị Hội đồng xét xử giao Lê Trọng P, sinh ngày 30/10/2003 cho bà Lê Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

+ Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung: Ghi nhận sự tự nguyện của bà T về việc không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con.

+ Vấn đề tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Về sự vắng mặt của bị đơn - ông Lê Thanh Đ đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng ông Đ vắng mặt không có lý do. Căn cứ Khoản 2 Điều 227 và Khoản 1, Khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn.

Về nội dung vụ án:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị T và ông Lê Thanh Đ chung sống trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 39, quyển số 2 ngày 09/5/2008 tại Ủy ban nhân xã Tân Hải, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Do vậy, đây là hôn nhân hợp pháp.

Bà T yêu cầu ly hôn với ông Đ do bất đồng quan điểm, không tôn trọng lẫn nhau. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Đ tham gia tố tụng nhưng ông Đ không tham gia và không gửi văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của bà T, chứng tỏ, ông Đ không còn quan tâm Đ việc hàn gắn tình cảm vợ chồng cũng như gìn giữ hạnh P gia đình. Như vậy, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu ly hôn của nguyên đơn có căn cứ, phù hợp quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Lê Trọng P, sinh ngày 30/10/2003 có nguyện vọng sống cùng bà T và bà T cũng có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu P nên Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu P cho bà Tuyên nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục.

[4] Về việc cấp dưỡng nuôi con chung: Ghi nhận sự tự nguyện của bà T về việc không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung và vay nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[6] Ý kiến phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí sơ thẩm: Bà Lê Thị T phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, 35, 39, 92, 227, 228, 273 và 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Các Điều 17, 19, 56, 81, 82, 83, 84 và 85 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị T về việc: Ly hôn và tranh chấp về nuôi con với bị đơn ông Lê Thanh Đ.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị T được ly hôn với ông Lê Thanh Đ.

1.2. Về con chung: Giao con chung Lê Trọng P, sinh ngày 30/10/2003 cho bà Lê Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Bà Lê Thị T và ông Lê Thanh Đ đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu Đ việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người đang trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

1.3. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Lê Thị T phải nộp số tiền 300.000 đồng án phí hôn nhân được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0052205 ngày 21-01- 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 25/2021/HNGĐ-ST ngày 22/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:25/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;