Bản án 25/2021/HNGĐ-ST ngày 14/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

 

BẢN ÁN 25/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Hôm nay ngày 14 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 45/2021/TLST- HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2020 về việc: Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn H - sinh năm 1990

Địa chỉ: số Q, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

- Bị đơn: Chị Phạm Thị Khánh L - sinh năm 1994

Địa chỉ: số B, phường N, thành phố T, tính Thanh Hóa.

Tại phiên tòa, có mặt anh H, vắng mặt chị L ( chị L có đơn xin xử vắng mặt),

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn và được bổ sung bằng lời khai cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ, nguyên đơn anh Nguyên Văn H trình bày:

Anh và chị L kết hôn với nhau năm 2015, trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại số Q, phường Ngọc Trạo, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Quá trình chung sống được 04 tháng thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, cách sống, vợ chồng không có tiếng nói chung. Từ tháng 7/2015 chị Linh đã bế con về bên bố mẹ đẻ ở cho đến nay, vợ chồng sống ly thân, không còn quan tâm trách nhiệm đến nhau. Nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, anh đề nghị tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị L.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung cháu Nguyễn Phạm Bảo N sinh 23/5/2015, hiện nay chị L đang trực tiếp nuôi cháu. Ly hôn anh đề nghị giao con cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ cho đến khi cháu thành niên.

Về tài sản, công nợ: anh không yêu cầu tòa án giải quyết

*Chị Phạm Thị Khánh L trình bày:

Chị và anh Hoàng kết hôn với nhau năm 2015 tại UBND phường N, Thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi cưới vợ chồng sống bên nhà anh H, cả hai chung sống hòa thuận được 04 tháng thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường hay cải vả xúc phạm nhau, không có tiếng nói chung, từ tháng 7/2015 chị đã đưa con về bên ngoại ở cho đến nay, không ai quan tâm trách nhiệm đến ai, nay anh H có đơn xin ly hôn, chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, sống không hạnh phúc, chị cũng đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung cháu Nguyễn Phạm Bảo N sinh 23/5/2015 như anh H trình bày là đúng, hiện nay chị đang trực tiếp nuôi cháu, ly hôn chị có nguyện vọng tiếp tục được nuôi con, tại lời khai ban đầu chị đồng ý để anh H cấp dưỡng tiền nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ, nhưng sau đó chị lại thay đổi ý kiến đề nghị anh H cấp dưỡng tiền nuôi con mỗi tháng 3.5000.000đ/ tháng, thời gian cấp dưỡng nuôi con tính từ khi anh H làm đơn ly hôn chị tháng 10/2020.

Về tài sản, công nợ: Chị không yêu cầu giải quyết.

* Tại phiên tòa hôm nay:

- Anh H vẫn giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn chị L. Về con chung: anh chị có 01 con chung cháu Nguyễn Phạm Bảo N sinh 23/3/2015, anh đồng ý giao cháu N cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh cấp dưỡng tiền nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ, chị L yêu cầu anh cấp dưỡng mỗi tháng 3.5000.000đ, thời gian từ tháng 10/2020 trở đi anh không đồng ý, vì hiện nay anh không có công ăn việc làm ổn định, chỉ làm thuê một số công việc cho gia đình, thu nhập không nhiều, anh chỉ cố gắng cấp dưỡng mỗi tháng 2.000.000đ cho cháu, thời gian tính từ khi xét xử là tháng 4/2021 trở đi cho đến khi cháu thành niên.

- Chị L vắng mặt: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã công bố lời khai của chị và các tài liệu có trong hồ sơ.

- Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát Thành phố Thanh Hóa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Tòa án và đương sự đã tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết cũng như xét xử vụ án. Đối với chị L là bị đơn đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng chị có đơn xin xử vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 227 khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị Tòa án vẫn đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Về đường lối: về hôn nhân: chấp nhận yêu cầu của anh H xử cho anh H được ly hôn chị L. Về con chung: giao cháu N cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh H phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung, mức cấp dưỡng đề nghị tòa án căn cứ theo các quy định của pháp luật để áp dụng mức cấp dưỡng phù hợp với thu nhập, điều kiện của nguyên đơn. Tài sản công nợ; anh chị không yêu cầu nên không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và công bố các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn chị L vắng mặt, chị có đơn xin xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.

[2] Về hôn nhân: Chị L và anh H kết hôn tháng 3/2015, có tìm hiểu tự nguyện, có tổ chức cưới, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, anh chị đã có thời gian hòa thuận được 4 tháng, sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, cách sống, vợ chồng không có tiếng nói chung. Từ tháng 7/2015 chị L đã bế con về bên bố mẹ đẻ ở cho đến nay, vợ chồng sống ly thân, không còn quan tâm trách nhiệm đến nhau. Nay anh chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, cả hai đồng ý ly hôn, căn cứ Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình xử: công nhận sự thuận tình ly hôn giữa hai người.

[2] Về con chung: Anh chị có 01 con chung cháu Nguyễn Phạm Bảo N sinh 23/5/2015, hiện nay chị đang trực tiếp nuôi cháu. Việc anh chị thống nhất giao con cho chị L nuôi là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật, nên chấp nhận sự thỏa thuận của anh chị về người trực tiếp nuôi con.

Riêng về cấp dưỡng nuôi con và thời gian cấp dưỡng nuôi con: tại bản tự khai ban đầu ngày 05/11/2020 anh chị đều thống nhất và đồng ý chị L trực tiếp nuôi con, anh H cấp dưỡng tiền nuôi con chung 2.000.000đ/tháng, nhưng sau đó chị lại thay đổi ý kiến đề nghị anh H cấp dưỡng tiền nuôi con mỗi tháng 3.5000.000đ/ tháng, thời gian cấp dưỡng nuôi con tính từ khi anh H làm đơn ly hôn chị từ tháng 10/2020 trở đi. Xét yêu cầu của chị L thấy rằng: việc chị đề nghị anh cấp dưỡng tiền nuôi con với số tiền 3.5000.000đ/ tháng là hoàn toàn chính đáng, nhưng việc cấp dưỡng tiền nuôi con phải căn cứ vào điều kiện và thu nhập của anh H, theo đơn trình bày của anh H cung cấp cho tòa án (đơn được chính quyền địa phương xác nhận) hiện nay anh không có công ăn việc làm ổn định, sống phụ thuộc vào gia đình, không có thu nhập, tại phiên tòa hôm nay anh trình bầy việc làm của anh không ổn định, chỉ làm thuê một số công việc cho gia đình, thu nhập không nhiều, được gia đình trả công 4.000.000đ/tháng, nên anh chỉ cố gắng cấp dưỡng mỗi tháng 2.000.000đ cho cháu. Căn cứ vào thực tế thu nhập của anh H thì việc chị L yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là chưa phù hợp, nghĩ nên chấp nhận việc thống nhất cấp dưỡng nuôi con ban đầu của anh chị, buộc anh H cấp dưỡng tiền nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ là phù hợp và thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 4/2021 trở đi cho đến khi cháu đến tuổi thành niên.

[3] Về tài sản, công nợ: Anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

[2] Về án phí: Căn cứ Điều 6; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án anh H phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm và 300.000đ án phí về cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 55; Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 271; Khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 6; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27; điểm 1.1 phần II danh mục A Danh mục án phí lệ phí tòa án Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử:

- Về hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Nguyễn Văn H và chị Phạm Thị Khánh L.

- Về con chung: Anh, chị có 01 con chung cháu Nguyễn Phạm Bảo N sinh 23/5/2015. Chấp nhận sự thống nhất của anh chị giao cháu Nguyễn Phạm Bảo N cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng. Buộc anh H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị L mỗi tháng 2.000.000đ, thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 4/2021 trở đi cho đến khi cháu N thành niên. Anh H được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.

- Về tài sản, công nợ: Anh, chị không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Về án phí: anh H phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số 0001560 ngày 21/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa và anh H phải chịu 300.000đ tiền án phí về việc cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ.

Người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a,7b, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Anh H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, chị L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 25/2021/HNGĐ-ST ngày 14/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:25/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;