Bản án 25/2020/HS-ST ngày 10/12/2020 về tội hủy hoại rừng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 25/2020/HS-ST NGÀY 10/12/2020 VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG

Ngày 10 tháng 12 năm 2020 tại Trụ sở TAND huyện K, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 32/2020/HSST ngày 08 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Nay Y, sinh năm 1989, tại K - Gia Lai; Nơi cư trú: Buôn H, xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Jrai; giới tính: Nam; Tôn giáo: Cơ đốc giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Rơ Ô N và bà Nay H; có vợ và 02 con, con nhỏ nhất sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: tốt; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú được tại ngoại cho đến nay, hiện có mặt tại phiên tòa.

- Nguyên đơn dân sự: Ủy ban nhân dân xã C.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Hà Văn Đ-Chủ tịch UBND xã C

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Đình T, cán bộ địa chính UBND xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai.

Nơi cư trú: Thôn M, xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai

Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Ngô Thị V - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Nay T, sinh năm 1997

Nơi cư trú: Buôn H, xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt

- Người phiên dịch tiếng Jrai: Ông Nay Dăm T, sinh năm 1986

Nơi cư trú: Tổ dân phố X, thị trấn P, huyện K, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 01/2020, Nay Y đã tự ý một mình dùng cưa xăng, dao rựa cắt hạ cây gỗ rừng tự nhiên trái phép nhằm mục đích để lấy đất sản xuất, với hình thức khai thác trắng tại lô 2, khoảnh 2, tiểu khu 1332 thuộc lâm phần xã C quản lý.

Ngày 04/02/2020 trong quá trình tuần tra, kiểm tra phòng cháy chữa cháy rừng nhằm ngăn chặn các hành vi xâm hại đến tài nguyên rừng. Tổ liên ngành xã C phát hiện 02 hộ phá rừng tại Tiểu khu 1332, tổ đã đo đạc xác định vị trí phá rừng trái phép và xác định được đối tượng vi phạm là Nay Y ở buôn H, xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai.

Ngày 19/02/2020, Hạt kiểm lâm huyện K nhận được báo cáo số 17/BC-UBND ngày 18/02/2020 của UBND xã C về việc tuần tra, kiểm tra, phòng cháy chữa cháy rừng nhằm ngăn chặn các hành vi xâm hại đến tài nguyên rừng. Xác định vị trí phá rừng trái phép tại lô 2, khoảnh 2, tiểu khu 1332 do UBND xã C quản lý là do Nay Y thực hiện.

Ngày 21/02/2020 Hạt kiểm lâm huyện K đã phân công tin báo và phối hợp với UBND xã C tiến hành kiểm tra, xác minh, đo đạc lại hiện trường rừng bị chặt phá. Đối chiếu bản đồ quy hoạch 3 loại rừng theo Nghị quyết số 100/NQ-HĐND ngày 07/12/2017 của Hội đồng nhân dân tỉnh Gia Lai để xác định vị trí, loại rừng, khối lượng gỗ, củi bị thiệt hại thực tế tại hiện trường như sau: Địa điểm phá rừng tại lô 2, khoảnh 2, tiểu khu 1332; loại rừng sản xuất, trạng thái rừng gỗ tự nhiên núi đất rụng lá nghèo (RLN) thuộc UBND xã C quản lý. Tại thời điểm kiểm tra, xác minh các vết chặt nhận thấy dụng cụ chặt hạ bằng cưa xăng, rựa; hình thức khai thác chặt trắng; thân, cành, ngọn cây đã được dọn gom đốt nhưng chưa cháy hết vẫn còn sót lại gốc cây cao từ 10cm đến 100cm so với mặt đất, đường kính từ 10cm đến 36cm và một số thân cây bị đốt cháy nham nhở còn sót lại nằm ngổn ngang tại hiện trường, các cây có chiều dài trung bình từ 3m đến 5m; loại cây bị chặt hạ chủ yếu là Bằng lăng, Dầu, Thành ngạnh, Vừng, Sp. Thời gian chặt hạ khoảng tháng 01/2020. Diện tích rừng bị chặt phá là 9.600 m2. Tiến hành đo đếm các gốc cây bị chặt phá, lập biểu tính lâm sản bị thiệt hại trên diện tích rừng bị phá trái phép, gỗ tròn nhóm II - V có khối lượng: 11,354m3, củi nhóm II - V, có khối lượng: 1,11 Ster.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 26/KL-HĐĐG ngày 30/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện K xác định thiệt hại về lâm sản là 31.663.900 đồng và thiệt hại về môi trường rừng là 9.119.000 đồng. Tổng giá trị thiệt hại trên diện tích rừng bị phá trái phép 9.600m2 là 40.782.900 đồng (Bốn mươi triệu bảy trăm tám mươi hai nghìn chín trăm đồng).

Về dân sự: ông Nguyễn Đình T là người đại diện theo ủy quyền của đại diện theo pháp luật của nguyên đơn dân sự UBND xã C đề nghị xử lý hành vi của bị cáo đúng theo quy định của pháp luật nhưng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, buộc bị cáo bồi thường toàn bộ thiệt hại đã gây ra.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người đại diện theo pháp luật của Nguyên đơn dân sự không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng định giá nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 30/KSĐT ngày 29 tháng 9 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh Gia Lai truy tố bị cáo Nay Y về tội “Hủy hoại rừng” theo điểm b khoản 1 Điều 243 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là BLHS).

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nay Y vào tội “Hủy hoại rừng”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử (sau đây gọi tắt là HĐXX):

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 243; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS: xử phạt bị cáo Nay Y từ 15 đến 18 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 42 của BLHS; Điều 137, 584, 585, 586, 589 của Bộ luật Dân sự: buộc bị cáo Nay Y phải bồi thường cho Nguyên đơn dân sự là UBND xã C, huyện K là 40.782.900 đồng nhưng được trừ 2.000.000 đồng mà bị cáo đã bồi thường trong giai đoạn xét xử; tịch thu tiêu hủy 01 hộp quẹt ga và 01 dao rựa, còn 01 cưa xăng tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm cho bị cáo.

Quan điểm bào chữa của trợ giúp viên pháp lý cho bị cáo đồng ý với bản luận tội của đại diện Viện sát nhân dân huyện K về tội danh, điều luật áp dụng và các tình tiết giảm nhẹ, nhưng bị cáo là lao động chủ yếu trong gia đình có 02 con nhỏ nên đề nghị HĐXX áp dụng thêm điều 54 và điều 65 của BLHS xử phạt bị cáo Y dưới khung và xử bị cáo 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng:

Cơ quan điều tra Công an huyện K, tỉnh Gia Lai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh Gia Lai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Vào khoảng tháng 01 năm 2019, bị cáo Nay Y đã có hành vi dùng dao rựa và cưa xăng cắt hạ, chặt phá, đốt diện tích 9.600m2 rừng tại lô 2, khoảnh 2, tiểu khu 1332 thuộc lâm phần xã C quản lý, là loại rừng sản xuất để lấy đất làm rẫy gây thiệt hại về lâm sản là 31.663.900đ đồng và thiệt hại về môi trường rừng là 9.119.000 đồng. Tổng giá trị thiệt hại là 40.782.900 đồng (Bốn mươi triệu bảy trăm tám mươi hai nghìn chín trăm đồng).

Việc bị cáo Nay Y dùng dao rựa, cưa xăng chặt phá diện tích 9.600m2 rừng tại lô 2, khoảnh 2, tiểu khu 1332 thuộc lâm phần xã C quản lý, thuộc loại rừng sản xuất để lấy đất làm rẫy mà không có sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền là đã phạm vào tội “Hủy hoại rừng Diện tích rừng mà bị cáo Nay Y chặt phá là 9.600m2 đã thỏa mãn định mức được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 243 của BLHS nên Hạt kiểm lâm huyện K đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 02 ngày 19/3/2020 về tội “Hủy hoại rừng” quy định tại Điều 243 Bộ luật hình sự và chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K điều tra theo thẩm quyền là đúng luật định. Như vậy, Hành vi phạm tội của bị cáo rõ ràng là có lỗi và sai trái với đường lối, chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta, nay phải chịu trách nhiệm hình sự và hậu quả pháp lý đã gây ra.

Lời nhận tội của bị cáo Y tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. HĐXX có đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo phạm vào tội “Hủy hoại rừng”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 243 của BLHS. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo về hành vi theo tội danh trên là có căn cứ pháp luật.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo Y chặt phá 9.600m2 rừng không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở điểm b khoản 1 Điều 243 của BLHS là phù hợp.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt:

Bị cáo Nay Y là người trưởng thành, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhưng thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là chặt phá rừng lấy đất làm nương rẫy đã gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài nguyên rừng của quốc gia đang được Nhà nước và nhân dân quan tâm chăm sóc và bảo vệ. Nay cần xét đến các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để cá thể hóa hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo là điều cần thiết.

Trong vụ án này thì bị cáo Y một mình trực tiếp thực hiện hành vi chặt phá, hủy hoại diện tích 9.600m2 rừng nên bị cáo Y phải chịu toàn bộ trách nhiệm hình sự về tội “Hủy hoại rừng” theo tình tiết định khung quy định tại điểm b khoản 1 Điều 243 của BLHS. Nhưng bị cáo Y là người có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; tại phiên tòa bị cáo đã tỏ ra thành khẩn khai báo, thật sự có thái độ ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã tự nguyện bồi thường được 2.000.000 đồng cho nguyên đơn dân sự, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi lượng hình được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của BLHS.

Mặt khác, bản thân bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú tại vùng sâu, vùng xa, có sự nhận thức hạn chế về pháp luật, trình độ học vấn thấp, do thiếu đất sản xuất nên đi chặt phá rừng với mục đích là lấy đất làm nương rẫy phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Ngoài ra tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền cho Nguyên đơn dân sự xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đây được coi là các tình tiết giảm nhẹ khác được áp dụng cho bị cáo được quy định tại khoản 2 Điều 51 của BLHS.

Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, quan điểm của người bào chữa và đại diện Viện kiểm sát thì HĐXX thấy bị cáo Nay Y lần đầu thực hiện hành vi phạm tội một mình, bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú tại vùng sâu, vùng xa, có sự nhận thức hạn chế về pháp luật, trình độ học vấn thấp nên không biết hành vi chặt phá rừng lấy đất làm nương rẫy là vi phạm pháp luật, do thiếu đất sản xuất nên phá rừng chỉ với mục đích là lấy đất trồng lúa, ngô phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của cuộc sống; bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên vẫn cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc là cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để nhằm mục đích trừng trị nhưng cũng giúp cho bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, đồng thời qua đó răn đe và phòng ngừa loại tội phạm này tái diễn trên địa bàn huyện K đang có chiều hướng gia tăng trong thời gian gần đây.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn dân sự yêu cầu bị cáo Y phải bồi thường toàn bộ thiệt hại về gỗ củi bị chặt phá và thiệt hại về môi trường với tổng cộng số tiền 40.782.900 đồng theo như kết quả định giá là có căn cứ. Do đó, cần buộc bị cáo phải bồi thường cho Nguyên đơn dân sự toàn bộ thiệt hại với tổng số tiền là 40.782.900 đồng (Bốn mươi triệu bảy trăm tám mươi hai nghìn chín trăm đồng). Nhưng được trừ vào số tiền bị cáo đã bồi thường là 2.000.000 đồng, bị cáo Y còn phải tiếp tục bồi thường cho Nguyên đơn dân sự là Ủy ban nhân dân xã C là 38.782.900 đồng (Ba mươi tám triệu bảy trăm tám mươi hai nghìn chín trăm đồng).

[6] Về xử lý vật chứng:

01 (Một) dao quắm (Rựa) phần lưỡi dao bằng kim loại dài 30cm, phần cán dao bằng gỗ dài 35cm và 01 (Một) hộp quẹt ga, màu trắng không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

01 (Một) cưa xích nhãn hiệu STIHL, màu cam-trắng có giá trị nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đặc điểm chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/10/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K.

[7] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo Y thuộc diện gia đình khó khăn, không có nghề nghiệp và tài sản gì có giá trị cho nên HĐXX quyết định không phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú tại xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai là xã đặc biệt khó khăn của huyện K theo quy định của Chính phủ, đồng thời bị cáo có đơn xin miễn tiền án phí hình sự và dân sự sơ thẩm. Căn cứ vào Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Hội đồng xét xử quyết định miễn toàn bộ án phí hình sụ và dân sự sơ thẩm cho bị cáo Y.

Trong vụ án này, Nguyên đơn dân sự là UBND xã C cũng có một phần trách nhiệm, thiếu kiểm tra, kiểm soát đối với diện tích rừng được Nhà nước giao quản lý, bảo vệ để xảy ra tình trạng hủy hoại rừng, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước. Do đó, thông qua Bản án này, Hội đồng xét xử kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của UBND xã C trong việc để xảy ra tình trạng hủy hoại rừng, gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước nêu trên.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nay Y phạm tội “Hủy hoại rừng”.

1. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 243; điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự,

Xử phạt bị cáo Nay Y 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt để chấp hành án.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 42 của Bộ luật Hình sự; Điều 137, 584, 585, 586, 589 của Bộ luật Dân sự,

Buộc bị cáo Nay Y phải bồi thường cho Nguyên đơn dân sự là Ủy ban nhân dân xã C toàn bộ thiệt hại với tổng số tiền là 40.782.900 đồng (Bốn mươi triệu bảy trăm tám mươi hai nghìn chín trăm đồng). Nhưng được trừ vào số tiền bị cáo đã bồi thường là 2.000.000 đồng, bị cáo Y còn phải tiếp tục bồi thường cho Nguyên đơn dân sự là Ủy ban nhân dân xã C là 38.782.900 đồng (Ba mươi tám triệu bảy trăm tám mươi hai nghìn chín trăm đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

3. Căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) dao quắm (Rựa) phần lưỡi dao bằng kim loại dài 30cm, phần cán dao bằng gỗ dài 35cm và 01 (Một) hộp quẹt ga, màu trắng.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (Một) cưa xích nhãn hiệu STIHL, màu cam-trắng.

Đặc điểm chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/10/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K.

4. Căn cứ vào khoản 1 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Miễn toàn bộ án phí hình sự và dân sự sơ thẩm cho bị cáo Nay Y.

Bị cáo, người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn dân sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (10/12/2020) để yêu cầu Tòa án Nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 25/2020/HS-ST ngày 10/12/2020 về tội hủy hoại rừng

Số hiệu:25/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện KBang - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;