TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 25/2020/HSPT NGÀY 20/02/2020 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Ngày 20 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 62/2019/HSPT ngày 26/12/2019. Do có kháng cáo của bị cáo, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2019/HSST ngày 06/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 142/2020/QĐXXPT-HS ngày 03 tháng 02 năm 2020.
Bị cáo kháng cáo:
Nguyễn Thành H, sinh năm 1996, tại Quảng Bình; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thành B (Đã chết) và bà Đinh Thị L; vợ, con chưa có.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 13/12/2018 đến ngày 06/6/2019 thì được bảo lĩnh. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra trong vụ án này còn có bị cáo Nguyễn Quang K và Nguyễn K1 cùng bị đưa ra xét xử về tội “Buôn bán hàng cấm” nhưng 02 bị cáo không kháng cáo và không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong khoảng thời gian từ 02/11/2018 đến ngày 08/12/2018, Nguyễn Thành H, Nguyễn Quang K và Nguyễn K1 đã thực hiện 02 vụ mua bán pháo nhằm mục đích kiếm lời cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Nguyễn Thành H từ Quảng Bình vào huyện H, tỉnh Quảng Trị buôn bán nên quen biết với Nguyễn K1 và đặt vấn đề mua bán pháo, được K đồng ý. Sau đó, K bàn bạc với Nguyễn Quang K để cùng nhau mua pháo từ Lào đưa về Việt Nam bán cho H kiếm lời.
Ngày 02/11/2018, K tìm được mối để mua pháo, nhưng do không có tiền nên nói với K1: “K1 cứ bỏ tiền ra mua pháo để bán cho H, có gì K sẽ giúp K1 việc mua pháo và vận chuyển pháo từ Lào về Việt Nam”, K1 đồng ý và đưa cho K 16.500.000 đồng để mua pháo, đồng thời thuê K vận chuyển pháo từ Lào về Việt Nam và bốc lên xe với giá 5.000.000 đồng.
Cùng ngày, K liên lạc mua 10 két pháo giá 36.500.000 đồng, đưa trước 16.500.000 đồng cho người bán pháo. Sau khi mua được pháo, K gọi điện cho H báo có pháo, nếu muốn mua thì gọi điện cho K1 và cho H số điện thoại của K1. Sau đó, H liên lạc với K1 trao đổi thống nhất mua bán loại pháo, số lượng, giá cả và thời điểm giao nhận. Thỏa thuận xong, H đi thị trấn K, huyện L, tỉnh Quảng Bình thuê xe ô tô tự lái, biển kiểm soát: 73A077.12 của anh Võ Phi S rồi điều khiển xe vào thị trấn L, huyện H. Đến 19 giờ ngày 02/11/2018, H gặp và thỏa thuận mua của K1 10 két pháo, loại 18 hộp/01két, 36 ống/01hộp với giá: 50.000.000 đồng, H đưa trước cho K1 20.000.000 đồng, rồi lái xe đến một đường hẻm thuộc khóm An Hà, thị trấn L, đợi nhận pháo. Đến 24 giờ cùng ngày, K nhận được điện thoại báo có pháo ở bến bà Chăn (ở Lào), K gọi điện cho bà Trương Thị M, trú tại: thị trấn L, là người đánh cá trên sông Sêpôn thuê vận chuyển 10 két hàng với giá 2.000.000 đồng. Bà M đồng ý và dùng đò máy của gia đình vận chuyển 10 két hàng (bà M không biết là hàng gì) từ bến X về bến trước mặt nhà Hồ Văn D (Loi) tại Việt Nam vào lúc 04 giờ ngày 03/11/2018. Tại đây, K thuê D và 2 người bạn của D là Hồ Văn H (Láo) và Hồ Văn C, cùng trú tại: thị trấn L bốc 10 két hàng với giá 200.000 đồng mỗi két hàng, nhưng không biết bên trong là hàng gì và K chưa trả tiền công.
Đến 04 giờ 30 phút ngày 03/11/2018, K1 chở 01 két pháo đến bỏ lên xe của H rồi dẫn đường cho H đến điểm tập kết pháo. Tại đây, K1 đứng canh, còn H, K và D bốc pháo lên xe. Sau đó, H điều khiển xe vận chuyển pháo chạy theo hướng thị trấn L - thành phố Đ, khi đến địa phận xã T, H trả cho K1 số tiền mua pháo còn lại là 29.000.000 đồng (K1 đã bớt cho H 1.000.000 đồng). Khi xe chạy đến thôn Úp Ly 2, xã Thuận, huyện H thì bị Công an huyện H phát hiện, tạm giữ 180 hộp pháo và phương tiện.
Tại bản kết luận giám định số: 902/C09C (Đ3,Đ4) ngày 28/11/2018 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: 180 hộp pháo trưng cầu giám định đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ), tổng khối lượng 242,85 kg.
Vụ thứ hai: Trong quá trình chở hàng hóa vào H bán, Nguyễn Thành H gặp và quen anh T (không rõ lai lịch, địa chỉ) làm nghề chở hàng thuê tại khu vực xã T, huyện H. H đặt vấn đề mua pháo, T đồng ý bán.
Đến 07 giờ 30 phút ngày 08/12/2018, T dùng số điện thoại (0356700994) gọi cho H báo có pháo với số lượng 13 két (mỗi két có 18 hộp, mỗi hộp có 36 ống) với giá 270.000 đồng/ 01hộp, tổng trị giá 63.180.000 đồng, H đồng ý mua.
Khoảng 8 giờ cùng ngày, H đến nhà anh Trần Tiến S, trú tại thôn H, xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình thuê xe ô tô tải BKS: 73C-080.14 và điều khiển xe đi chở pháo. Khoảng 11 giờ 15 phút, khi đến ngã ba T, H được T dẫn đến địa điểm bốc pháo. Sau khi bốc 13 bao gai chứa pháo lên xe, kiểm tra đúng chủng loại và số lượng pháo như thỏa thuận, H sắp xếp lại các bao pháo rồi chồng các sọt nhựa lên trên để che giấu. H trả trước cho T 40.000.000 đồng, còn nợ 23.180.000 đồng. Sau đó, H điều khiển xe theo Quốc lộ 9 về Quảng Bình, khi đến km27 thuộc địa phận huyện C thì bị tổ TTKS - Trạm CSGT Đ và Phòng PC08 Công an tỉnh Quảng Trị tiến hành kiểm tra, phát hiện thu giữ 234 hộp pháo và phương tiện.
Tại bản kết luận giám định số: 52/KLGĐ-PC09 ngày 12/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 234 hộp pháo trưng cầu giám định đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ), tổng khối lượng 285kg.
Với nội dung nêu trên tại Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2019/HSST ngày 06/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị, đã quyết định:
Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thành H, Nguyễn Quang K và Nguyễn K1 phạm tội: “Buôn bán hàng cấm”.
Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 190; đoạn đầu điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ Luật hình sự, xử phạt bị cáo: Nguyễn Thành H 8 (Tám) năm 6 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giam từ ngày 13/12/2018 đến ngày 06/6/2019.
Ngoài ra bản án còn quyết định về hình phạt đối với 02 bị cáo Nguyễn Quang K và Nguyễn K1, quyết định về án phí xử lý vật chứng và quyền kháng cáo của bị cáo Ngày 11 tháng 11 năm 2019 bị cáo Nguyễn Thành H kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thành H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, lời khai nhận của bị cáo, và kết quả tranh luận tại phiên tòa. Trên cơ sở xem xét đánh giá khách quan toàn diện và đầy đủ chứng cứ. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Ngày 03/11/2018, tại địa phận huyện H, tỉnh Quảng Trị, Nguyễn Thành H đã có hành vi mua 180 hộp pháo nổ có tổng khối lượng 242,85kg, với số tiền 49.000.000 đồng của Nguyễn Quang K và Nguyễn K1 (Số pháo nổ trên K1 và K mua của người khác để bán lại cho H).
Sau đó vào ngày 08/12/2018, cũng tại địa phận huyện H, Nguyễn Thành H tiếp tục có hành vi mua 234 hộp pháo nổ có tổng khối lượng 285kg, với số tiền 63.180.000 đồng của đối tượng tên T (Không rõ lai lịch, địa chỉ). Trên đường vận chuyển 02 lần số pháo trên về tỉnh Quảng Bình để bán thì bị bắt giữ người cùng tang vật. Trong đó, Nguyễn Thành H chịu tổng tang số 02 lần là 527,85kg pháo nổ, Nguyễn Quang K và Nguyễn K1 chịu cùng tang số 242,85kg pháo nổ. Các bản kết luận giám định xác định số pháo nổ H, K1 và K buôn bán có đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kính thích hoặc đốt có gây tiếng nổ).
[2] Với hành vi nêu trên của các bị cáo Nguyễn Thành H, Nguyễn Quang K, Nguyễn K1; Bản án sơ thẩm đã xét xử các bị cáo về tội “Buôn bán hàng cấm”, với tình tiết tăng nặng định khung: “Pháo nổ 120 kilôgam trở lên” được quy định tại điểm c khoản 3 Điều 190 Bộ Luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3]. Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thành H, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi của các bị cáo Nguyễn Thành H là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới hoạt động quản lý kinh tế của nhà nước đối với những loại hàng hoá mà pháp luật cấm kinh doanh, xâm phạm tới trật tự trị an, an toàn xã hội trong khu vực, làm ảnh hưởng đến nếp sống văn hoá của dân tộc.
Đối với Nguyễn Thành H, bị cáo nhận thức được pháo nổ là hàng hóa Nhà nước cấm sản xuất, vận chuyển, mua bán nhưng vì hám lợi trước mắt mua về để bán lại để kiếm lời. Bản án sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo 08 năm 06 tháng tù, tại cấp phúc thẩm, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo phạm tội cũng là vì mục đích vụ lợi buôn bán hàng cấm là pháo nổ, phạm tội nhưng chưa gây ra hậu quả gì, hiện nay bị cáo là lao động chính trong gia đình, đang nuôi mẹ già, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mất sớm, hiện đang nuôi, chăm sóc ông nội già yếu là người có công với Cách Mạng (Có xác nhận của chính quyền địa phương), do vậy Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện tính nhân đạo và khoan hồng của pháp luật.
Vì các lẽ nêu trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thành H. Sửa một phần quyết định của bản án hình sự sơ thẩm số: 50/2019/HS-ST ngày 06/11/2019,của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị.
Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 190; điểm s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ Luật hình sự, xử phạt bị cáo: Nguyễn Thành H 07 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giam từ ngày 13/12/2018 đến ngày 06/6/2019.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, và không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 25/2020/HSPT ngày 20/02/2020 về tội buôn bán hàng cấm
Số hiệu: | 25/2020/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/02/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về