Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 26/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN MINH, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 25/2020/HNGĐ-ST NGÀY 26/06/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 6 năm 2020 tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 295/2019/TLST-HNGĐ ngày 23-12-2019 về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/02/2020, quyết định hoãn phiên tòa số: 13/2020/QĐST-HNGĐ ngày 25/3/2020, thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số: 27/TB-TA ngày 20/4/2020, thông báo mở phiên tòa số: 45/TB-TA ngày 15 tháng 5 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số: 29/2020/QĐST-HNGĐ ngày 29/5/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị P, sinh năm 1985 (Có mặt)

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1984 (Vắng mặt)

Địa chỉ: ấp X, xã B, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 10/12/2019, biên bản lấy lời khai ngày 04/02/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị P trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn T chung sống với nhau năm 2007, có đăng ký kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân xã B cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 12/3/2007. Cuộc sống vợ thật sự hạnh phúc được khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hợp nhau nên thường bất đồng quan điểm trong cuộc sống dẫn đến vợ chồng thường cãi nhau làm cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng không thể khắc phục được. Tuy đến thời điểm hiện nay vợ chồng vẫn còn sống chung một nhà nhưng trong cuộc sống vợ chồng không còn ai quan tâm đến ai.

Về con: Vợ chồng có 01 đứa con chung tên Nguyễn NT, sinh ngày 27/12/2007 hiện tôi đang trực tiếp nuôi.

Về tài sản: Vợ chồng không tài sản chung.

Về nợ: Vợ chồng không nợ chung tài sản gì đối với ai khác cũng không ai nợ vợ chồng.

Nay yêu cầu Tòa án giải quyết:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xin ly hôn anh Nguyễn Văn T:

2. Về quan hệ nuôi con chung: Yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung tên Nguyễn NT, sinh ngày 27/12/2007, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con cùng chị sau khi vợ chồng ly hôn, vì hiện tại chị đang là cán bộ khuyến nông tại Ủy ban nhân dân xã B và công tác giảng dạy nên thu nhập trung bình mỗi tháng 5.000.000 đồng nên đủ điều kiện để nuôi con:

3. Về quan hệ tài sản chung: Vợ chồng không tài sản chung, không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về quan hệ nợ chung: Vợ chồng không nợ chung tài sản gì đối với ai khác cũng không ai nợ vợ chồng, không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại phiên tòa:

- Nguyên đơn chị Nguyễn Thị P vẫn giữ nguyên ý kiến trình bày và yêu cầu như trên, ngoài ra có bổ sung vợ chồng tuy vẫn sống chung một nhà nhưng không ai quan tâm đến ai, đồng thời đã tự cách ly nhau từ khoảng tháng 10 năm 2019 đến nay.

- Bị đơn anh Nguyễn Văn T vắng mặt lần thứ hai, không lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.

- Đại diện viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng nguyên đơn chị Nguyễn Thị P trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; đối với người tham gia tố tụng bị đơn anh Nguyễn Văn T trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là chưa đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, cụ thể như không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và tham gia phiên tòa xét xử:

+ Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xem xét những vấn đề cụ thể như sau, về hôn nhân, cho chị Nguyễn Thị P ly hôn anh Nguyễn Văn T; về nuôi con chung, giao Nguyễn NT, sinh ngày 27/12/2007 là con chung của hai người cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng, anh T không cấp dưỡng nuôi con cùng chị P; về tài sản chung và về nợ chung, không có tranh chấp nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt Thông báo cho bị đơn anh Nguyễn Văn T biết và quy định thời gian để bị đơn có ý kiến về việc khởi kiện “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” của nguyên đơn chị Nguyễn Thị P. Nhưng bị đơn anh T không có ý kiến gì và cũng không cung cấp chứng cứ gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Do đó, Tòa án vẫn tiến hành việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Sau đó, Tòa án tiến hành Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, đồng thời đã tống đạt hợp lệ cho bị đơn anh T, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà bị đơn anh T vẫn cố tình vắng mặt không lý do. Như vậy, được xác định đây là vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: “Bị đơn,........đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt”.

Nên Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung và đã tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng cho bị đơn anh Nguyễn Văn T, nhưng bị đơn anh T vắng mặt không có lý do nên HĐXX phải hoãn phiên tòa. Quyết định hoãn phiên tòa để mở phiên tòa xét xử lần thứ hai đã được tống đạt hợp lệ cho bị đơn anh T, nhưng bị đơn anh T vẫn vắng mặt không có lý do, đồng thời tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị P không yêu cầu hoãn phiên tòa. Vì vậy, HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn anh T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 241 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị P và anh Nguyễn Văn T khi tổ chức hôn nhân, anh chị tự nguyện lấy nhau làm vợ chồng, đủ tuổi, có đăng ký kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân xã B cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 12/3/2007. Quan hệ hôn nhân giữa chị P và anh T là hôn nhân hợp pháp phù hợp theo qui định tại các điều 8, 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị P thấy rằng: Theo chị P trình bày cùng các tài liệu có trong hồ sơ thể hiện thì mâu thuẫn vợ chồng phát sinh là do tính tình vợ chồng không hợp nhau nên thường bất đồng quan điểm trong cuộc sống dẫn đến vợ chồng thường cãi nhau làm cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng không thể khắc phục được, tuy anh chị vẫn sống chung một nhà nhưng cả hai không có sự quan tâm đến nhau.

Qua kết quả xác minh, thu thập chứng cứ thì tình trạng mâu thuẫn vợ chồng của chị P và anh T là có thật, phù hợp với lời trình bày của chị P nêu trên, thực tế khi Tòa án giao Thông báo thụ lý vụ án cho đến nay anh T vẫn không thể hiện ý kiến gì đối với yêu cầu của chị P mà có ý thức bỏ mặc (Bút lục số 16, 21, 32).

Từ những phân tích, đánh giá trên cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị P và anh T không khả năng đoàn tụ, tình trạng hôn nhân trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị P đối với anh T theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về quan hệ nuôi con chung: Theo chị P, vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn NT, sinh ngày 27/12/2007 hiện đang sống chung với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con cùng chị sau khi vợ chồng ly hôn.

Nội dung này đã được Tòa án nêu rõ trong thông báo thụ lý vụ án và đã tống đạt hợp lệ cho anh T, nhưng anh T vẫn không có ý kiến phản bác gì đối với ý kiến của chị P nêu ra và cũng không có yêu cầu gì khác. Đồng thời, cháu Nguyễn Năm Thuận cũng đã có văn bản thể hiện ý kiến cũng như được Tòa án thu thập, sau khi cha mẹ (chị P, anh T) ly hôn có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với chị P. Việc chị P không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con cùng chị sau khi vợ chồng ly hôn là tự nguyện, hơn nữa theo ý kiến của chị P nêu ra và chứng cứ thu thập được thì hiện nay chị có nghề nghiệp và có thu nhập ổn định nên có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con chung, do đó anh T không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị P. Vì vậy, cần giao cháu Nguyễn NT, sinh ngày 27/12/2007 cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng sau khi chị P và anh T ly hôn là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không thể hiện ý kiến yêu cầu gì, nên HĐXX không xem xét.

- Về quan hệ tài sản chung và về quan hệ nợ chung: Theo chị P vợ chồng không tài sản chung, không nợ chung tài sản gì đối với ai khác cũng không ai nợ vợ chồng, không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của chị P về tài sản chung và nợ như trên, Tòa án đã nêu trong Thông báo về việc thụ lý vụ án để anh T biết, nhưng đến nay anh T không có ý kiến gì phản bác ý kiến của chị P và cũng không có yêu cầu gì khác. Như vậy, khi Tòa án giải quyết vụ án này thì các đương sự (chị P, anh T) không có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ, do đó HĐXX không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị P có đơn yêu cầu xin ly hôn nên chị P phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm xin ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 241 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Áp dụng Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Tuyên xử:

1 - Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị P ly hôn anh Nguyễn Văn T.

2 - Về quan hệ nuôi con chung: Giao con chung Nguyễn NT, sinh ngày 27/12/2007 cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng (đúng theo nguyện vọng của Nguyễn NT), anh T không cấp dưỡng nuôi con cùng chị P sau khi vợ chồng ly hôn.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3 - Về quan hệ tài sản chung và về quan hệ nợ chung: Không xem xét.

4 - Về án phí: Chị Nguyễn Thị P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm xin ly hôn là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0007613 ngày 20 tháng 12 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện An Minh; chị P đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 26/6/2019); đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 26/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:25/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Minh - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;