Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 23/07/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC

 BẢN ÁN 25/2020/HNGĐ-ST NGÀY 23/07/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

 Ngày 23 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 85/2020/TLST - HNGĐ ngày 11 tháng 03 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị H, sinh năm 1983 (có mặt) Nơi đăng ký HKTT: Thôn Đ, xã Y, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc; chỗ ở hiện nay: Thôn Lạc Trung, xã Bình Dương, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc

 2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1970 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Đ, xã Y, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 06/02/2020 cùng các lời khai tiếp theo và tại phiên tòa chị Lê Thị H trình bày: Chị kết hôn với anh Nguyễn Văn T ngày 25/4/2008 trước khi cưới có tìm hiểu (chị biết anh T có vợ con nhưng đã ly hôn), cưới có đăng ký tại UBND xã Y sau khi cưới chị về làm dâu và ở chung với gia đình anh T gồm bố mẹ và con riêng của anh T là cháu Nguyễn Thị Thanh Huyền. Tình cảm vợ chồng ban đầu bình thường, giữa chị và gia đình chồng cùng con riêng của anh T không có mâu thuẫn gì, năm 2010 vợ chồng sảy ra mâu thuẫn nguyên nhân do chị bị sẩy thai hai lần đến khi chị mang thai cháu H thì anh T không quan tâm chăm sóc. Khi chị chuẩn bị sinh con anh T và gia đình biết chị sinh con gái nên không quan tâm gì sau đó chị tự về nhà bố mẹ đẻ ở để chuẩn bị sinh con từ cuối năm 2010. Vợ chồng sống ly thân từ đó trong thời gian sống ly thân anh T chưa lần nào đến thăm mẹ con chị, nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn với anh T.

Bị đơn anh Nguyễn Văn T vắng mặt nhưng theo biên bản lấy lời khai ngày 05/6/2020 anh T trình bày: Anh thừa nhận chị H trình bày đúng về điều kiện kết hôn và quá trình vợ chồng chung sống, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau, không tìm được tiếng nói chung và không đồng cảm trong cuộc sống nên cuối năm 2010 chị H về nhà bố mẹ đẻ ở từ đó cho đến nay. Trong thời gian chị H về nhà bố mẹ đẻ ở anh và gia đình đã gọi chị H về nhưng chị không về. Trước đây anh có nguyện vọng đoàn tụ là vì con nhưng nay chị H vẫn cương quyết xin ly hôn thì anh không níu kéo nữa, anh đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật và anh xin được giải quyết vắng mặt.

Về con chung: Chị H anh T thừa nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu Lê Thị H, sinh ngày 10/03/2011 hiện nay cháu đang ở với chị H. Ly hôn chị H xin nuôi cháu H không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung, anh T đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, đất canh tác: Chị H anh T không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về công sức: Chị H tự nguyện không yêu cầu anh T và gia đình thanh toán công sức.

Tại phiên tòa Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký Tòa án và việc chấp hành pháp luật của các đương sự và phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Xử: Cho chị Lê Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

Về con chung: Chị Lê Thị H tiếp tục nuôi dưỡng và giáo dục cháu Lê Thị H sinh ngày 10/03/2011. Anh Nguyễn Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung, tài sản riêng, công sức, công nợ và đất canh tác: Chị Lê Thị H, anh Nguyễn Văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Án phí chị H phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng dân sự: Chị Lê Thị H có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường giải quyết việc tranh chấp hôn nhân của chị và anh T theo quy định tại Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự, cả chị và anh T sinh sống tại Vĩnh Tường nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường.

Về sự vắng mặt của anh T đã có lời khai, có đơn xin giải quyết vắng mặt vì vậy căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với đương sự trên.

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Năm 2008 chị Lê Thị H kết hôn với anh Nguyễn Văn T trên cơ sở tự nguyện, trước khi cưới có tìm hiểu có đăng ký kết hôn là cuộc hôn nhân hợp pháp. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc nên đã có một con chung, trong quá trình chung sống do chị H hai lần chị bị sẩy thai đến khi chị mang thai cháu H anh T không quan tâm chăm sóc, khi chị sinh cháu H anh T và gia đình chưa lần nào đến thăm mẹ con chị. Mặt khác do vợ chồng không hợp nhau không tìm được tiếng nói chung, không đồng cảm trong cuộc sống nên đã sống ly thân từ cuối năm 2010 cho đến nay. Điều đó chứng tỏ rằng tình cảm vợ chồng thực sự không còn, đời sống chung không đạt được nên chị H xin ly hôn anh T. Vì vậy căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình giải quyết cho chị H được ly hôn với anh T là phù hợp.

[2]. Về con chung: Chị H anh T có 01 con chung là cháu H nay cháu đang ở với chị H, ly hôn chị H xin nuôi cháu H không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh T thì đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật, nguyện vọng của cháu H xin được ở với chị H vì vậy căn cứ vào Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng cháu H đến khi trưởng thành. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được ngăn cản.

[3]. Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ và đất canh tác: Chị H và anh T không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[4]. Về công sức: Chị Lê Thị H tự nguyện không yêu cầu anh T và gia đình thanh toán công sức nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị H là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Về quyền kháng cáo bản án các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Cho chị Lê Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

Về con chung: Chị Lê Thị H tiếp tục nuôi dưỡng và giáo dục cháu Lê Thị H sinh ngày 10/03/2011, anh Nguyễn Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung, người không trực tiếp nuôi con có quyền nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ và đất canh tác: Chị Lê Thị H anh Nguyễn Văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về công sức: Chị Lê Thị H tự nguyện không yêu cầu anh T và gia đình thanh toán công sức.

Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Lê Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số AA/2017/0004943 ngày 11/03/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Tường, chị H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn T vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 23/07/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:25/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;