Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 22/07/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B- TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 25/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Vào ngày 22 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bạc Liêu tiến hành phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 41/2020/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp “Xin ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2020/QĐXX-ST ngày 01 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Thạch Thị T, sinh năm 1985.

Địa chỉ: Số 3/263B, ấp A, xã V, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.

2. Bị đơn: Anh Danh H, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Số 3/263B, ấp A, xã V, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.

(Chị T và anh H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay chị Thạch Thị T là nguyên đơn trong vụ án trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Danh H có tổ chức lễ cưới hỏ i theo phong tục tập quán vào năm 2009, có đăng ký kết hôn theo quy định tại Ủy ban nhân dân xã V, thành phố B vào ngày 22/4/2011. Quá trình chung sống anh H không tôn trọng vợ và gia đình của vợ, không lo cho cuộc sống vợ chồng, chi tiêu sinh hoạt hằng ngày do một mình chị gánh vác. Chị đã nhiều lần góp ý nhưng anh H vẫn không sửa đổi. Nay xét thấy mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn được nữa, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc nên chị xin ly hôn với anh Danh H.

- Về con chung: Chị T xác định trong thời gian chung sống chị và anh H có 02 con chung là cháu Danh Thị Tú K, sinh ngày 27/6/2010 và cháu Danh Thị Huỳnh N, sinh ngày 07/9/2012, hiện tại hai cháu đang sống chung với anh chị.

Khi ly hôn chị T yêu cầu được trực tiếp nuô i dưỡng cháu K và cháu N, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị và anh H không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

* Quá trình giải quyết vụ án, tại biên bản lấy lời khai và biên bản hòa giải ngày 02/3/2020 anh Danh H là bị đơn trình bày:

- Về hôn nhân: Anh và chị Thạch Thị T có tổ chức lễ cưới hỏi và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Quá trình chung sống vợ chồng có xảy ra mâu thuân nhưng chỉ là mâu thuẫn nhỏ nhặt, chủ yếu về kinh tế. Nay chị T yêu cầu xin ly hôn với anh thì anh không đồng ý ly hôn vì hiện tại anh vẫn còn thương yêu vợ con của mình, anh muốn vợ chồng hàn gắn đoàn tụ cùng nuôi dạy các con khôn lớn.

- Về con chung: Anh H thống nhất với chị T vợ chồng có hai con chung là cháu Danh Thị Tú K, sinh ngày 27/6/2010 và cháu Danh Thị Huỳnh N, s inh ngày 07/9/2012, hiện tại hai cháu đang sống chung vợ chồng. Khi ly hôn anh H chỉ đồng ý giao cháu N cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng và anh yêu cầu được trực tiếp nuô i dưỡng cháu K, cả anh và chị T không ai cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Anh và chị T không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

* Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Bạc Liêu phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ theo thủ tục tố tụng và các văn bản có liên quan nên về hình thức tố tụng Viện kiểm sát xét thấy bảo đảm đủ điều kiện và hợp pháp. Các đương sự chấp hành đúng theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung vụ án:

+ Về hôn nhân: Chị T và anh H chung sống vợ chồng có đăng ký kết hôn nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Chị T và anh H đều xác định có xảy ra mâu thuẫn. Nay chị T xin ly hôn, anh H không đồng ý ly hôn nhưng không có biện pháp khắc phục mâu thuẫn nên có cơ sở chấp nhận yêu cầu của chị T xin ly hôn với anh H.

+ Về con chung: Chị T và anh H thống nhất xác định quá trình chung sống, anh chị có hai con chung là cháu Danh Thị Tú K, sinh ngày 27/6/2010 và cháu Danh Thị Huỳnh N, sinh ngày 07/9/2012. Khi ly hôn cả chị T và anh H thống nhất giao cháu N cho chị T trực tiếp nuô i dưỡng, thỏa thuận này phù hợp ý chí nguyện vọng cháu N nên có căn cứ chấp nhận.

Đối với cháu K chị T và anh H đều yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu K. Xét nguyện vọng của cháu K khi cha mẹ ly hôn thì cháu muốn được sống chung với mẹ và trên thực tế hiện cháu K đang sống chung với anh chị tại nhà cha mẹ ruột của chị T, người hằng ngày trực tiếp lo cho cháu ăn học là chị T, mặc khác cháu K là nữ nên rất cần sự chăm sóc trực tiếp của người mẹ nên cần giao cháu K cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng chị T không đặt ra nên không giải quyết.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Do chị T và anh H xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết tại phiên tòa hôm nay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án; sau khi nghe ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, sau khi thảo luận Hộ i đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn chị Thạch Thị T khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn là anh Danh H nên đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Đ iều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn là anh H, hiện đang cư trú tại số 3/263B, ấp A, xã V, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu nên vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc xét xử vắng mặt đương sự: Chị Thạch Thị T là nguyên đơn vắng mặt do có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Danh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt không có lý do, căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị T và anh H.

[2] Xét quan hệ hôn nhân: Chị Thạch Thị T và anh Danh H tự nguyện chung sống vợ chồng từ năm 2009, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật nên quan hệ hôn nhân của chị T và anh H là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Chị T cho rằng quá trình chung sống có xảy ra mâu thuẫn về tình cảm và kinh tế, nhiều lần chị T đã khuyên nhủ và anh H hứa sẽ sửa chữa nhưng không thay đổi nên chị yêu cầu ly hôn với anh H. Anh H cho rằng vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn nhưng mâu thuẫn nhỏ nhặt nên anh không đồng ý ly hôn, anh muốn đoàn tụ. Hộ i đồng xét xử xét thấy anh H muốn được đoàn tụ nhưng anh H cũng không có bất cứ động thái nào để giải quyết mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm vợ chồng, Tòa án đã nhiều lần mời các đương sự để hòa giải nhằm để tạo điều kiện cho các bên đương sự hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh H chỉ có mặt lần đầu, các lần sau đó đều vắng mặt không có lý do . Xét thấy, hôn nhân được hình thành trên nguyên tắc tự nguyện, tình cảm vợ chồng phải xuất phát từ hai phía, tuy anh H không đồng ý ly hôn nhưng chị T kiên quyết ly hôn với anh H do không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống vợ chồng với anh H. Như vậy, có cơ sở xác định mâu thuẫn giữa chị T và anh H là có xảy ra trên thực tế và không có biện pháp khắc phục mâu thuẫn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T, xử cho chị T được ly hôn với anh H.

[3] Về con chung: Chị T và anh H thống nhất xác định quá trình chung sống, anh chị có hai con chung là cháu Danh Thị Tú K, sinh ngày 27/6/2010 và cháu Danh Thị Huỳnh N, sinh ngày 07/9/2012, hiện tại hai cháu đang sống chung chị T và anh H.

Khi ly hôn chị T và anh H đều thống nhất giao cháu Danh Thị Huỳnh N cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, sự thỏa thuận này của chị T và anh H là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với ý chí nguyện vọng của cháu N, không trái đạo đức xã hội và không trái quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Đối với cháu Danh Thị Tú K, chị T và anh H đều yêu cầu được trực tiếp nuô i dưỡng cháu K. Hội đồng xét xử xét thấy quyền được nuôi dưỡng con chung là quyền của cả vợ và chồng được pháp luật bảo vệ, tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần xem xét đánh giá hoàn cảnh sống và điều kiện về mọ i mặt của người trực tiếp nuôi dưỡng con chung để quyền lợi của người con được đảm bảo tốt nhất. Chị T và anh H đều có thu nhập đảm bảo nuôi dưỡng cháu K. Tuy nhiên, theo b iên bản lấy lời khai của cháu K thì cháu K xác định khi cha mẹ ly hôn thì cháu có nguyện vọng được sống chung với mẹ và trên thực tế hiện cháu K đang sống chung với anh chị tại nhà cha mẹ ruột của chị T, người hằng ngày trực tiếp lo cho cháu ăn học là chị T, mặc khác cháu K là nữ nên rất cần sự chăm sóc trực tiếp của người mẹ. Để ổn định tâm sinh lý cho cháu K, Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục giao cháu K cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu của chị T về việc giao cháu K cho chị T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng.

Đối với việc cấp dưỡng nuôi con: Do chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng không đặt ra xem xét.

Anh H không trực tiếp nuô i con có quyên, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai đươc can trở.

[4] Về tài sản chung: Chị T, anh H thống nhất không có nên Hộ i đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Chị T, anh H thống nhất không có nợ chung nên Hộ i đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị T yêu cầu ly hôn với anh H nên chị T phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình là 300.000 đồng.

Trên cơ sở phân tích nêu trên có cơ sở chấp nhận toàn bộ lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về nội dung vụ án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Đ iều 39, khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Căn cứ vào khoản 1 Đ iều 53, Đ iều 56; Điều 81 và Đ iều 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1/. Về hôn nhân: Xử cho chị Thạch Thị T được ly hôn với anh Danh H.

2/. Về con chung: Giao hai cháu Danh Thị Tú K, sinh ngày 27/6/2010 và cháu Danh Thị Huỳnh N, sinh ngày 07/9/2012 cho chị Thạch Thị T trực tiếp nuôi dưỡng (hiện tại cháu K và cháu N đang sống chung chị T và anh H).

Anh Danh H có quyên, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai đươc can trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Thạch Thị T không yêu cầu anh Danh H cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

3/. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

4/. Về án phí: Chị Thạch Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Chị T đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0006535 ngày 11 tháng 02 năm 2020 tại Chi cục T hành án dân sự thành phố B, nay được chuyển thu án phí.

Án xử công khai, đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được Nêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 22/07/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:25/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;