Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 22/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 25/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/06/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 29 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 342/2019/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lý Thị Bé M, sinh năm 1998(Có mặt);

Hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Sóc Trăng.

Chỗ ở hiện nay: Số A, khóm B, phường C, thành phố X, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1993(Vắng mặt); Địa chỉ: Số A ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện về việc ly hôn ngày 02 tháng 12 năm 2019, tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay nguyên đơn bà Lý Thị Bé M trình bày:

Bà Lý Thị Bé M và ông Nguyễn Thanh T tổ chức cưới nhau có đăng ký kết hôn vào ngày 28/3/2017 tại UBND xã C, huyện D. Sau khi cưới vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian, đến khi bà sinh con thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cải vả cùng nhau do ông Tthường say sỉn, không lo cho gia đình vợ con. Đến tháng 10/2019 thì vợ chồng không sống chung cùng nhau cho đến nay. Nay bà nhận thấy hôn nhân không có hạnh phúc nên bà yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Thanh T.

Về con chung: Bà và ông Tcó 01 con chung là Nguyễn Thị Diễm M, sinh ngày 26/01/2015, hiện đang sống với bà M. Khi ly hôn bà yêu cầu được quyền nuôi con chung, không yêu cầu ông Tcấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không có.

-Tại biên bản hòa giải ngày 07/01/2020 bị đơn ôngNguyễn Thanh T trình bày ý kiến:

Ông và bà Lý Thị Bé M cưới nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã C, huyện D. Sau khi cưới vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 01 năm, sau đó thì thường phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng ý kiến. Từ tháng 10/2019 đến nay thì vợ chồng sống ly thân cùng nhau. Nay hôn nhân không có hạnh phúc nên bà M yêu cầu ly hôn, ông đồng ý.

Về con chung: Ông và bà M có 01 con chung là Nguyễn Thị Diễm M, sinh ngày 26/01/2015, đang sống với bà M. Khi ly hôn ông yêu cầu được quyền nuôi con, ông không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa hôm nay Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý, xét xử vụ án thì thẩm phán, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; đối với bị đơn đã được triệu tập xét xử đến lần thứ hai nhưng ông Tvẫn vắng mặt đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 tiến hành xét xử vắng mặt ông Nguyễn Thanh T.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc xin ly hôn của bà Lý Thị Bé M cho bà Lý Thị Bé M được ly hôn cùng ông Nguyễn Thanh T. Về con chung tiếp tục giao cháu Nguyễn Thị Diễm M cho bà Lý Thị Bé M nuôi dưỡng đến trưởng thành; về cấp dưỡng bà M không yêu cầu nên không đặt ra xem xét. Về tài sản chung, nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết: Về án phí các đương sự phải chịu theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Ông Nguyễn Thanh T đã được cấp tống đạt các văn bản tố tụng theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự, ông Tđã được triệu tập xét xử đến lần thứ hai nhưng ông Tvẫn vắng mặt, áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt ông Nguyễn Thanh T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lý Thị Bé M và ông Nguyễn Thanh T cưới nhau năm 2014 ông, bà tự nguyện đăng ký kết hôn và được UBND xã C, huyện D cấp giấy chứng nhận kết hôn số 87/2017 ngày 28/3/2017 nên quan hệ hôn nhân giữa bà Lý Thị Bé M và ông Nguyễn Thanh T là hôn nhân hợp pháp.

[3] Xét lý do yêu cầu ly hôn của bà Lý Thị Bé M, Hội đồng xét xử thấy rằng, sau khi kết hôn thì bà M, ông Tsống hạnh phúc được một thời gian thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do trong cuộc sống vợ chồng bất đồng quan điểm,vợ chồng thường xuyên cải vả cùng nhau, ông Tthường say sỉn, không lo cho vợ con, từ đó vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm cùng nhau mặc dù bà M đã cố gắng duy trì cuộc sống hôn nhân sống cùng ông T để nuôi dạy con khôn lớn nhưng không có kết quả mà ngược lại mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn dẫn đến bà M và ông Tkhông thể sống chung được nữa, từ đó bà M đã sống ly thân cùng ông Ttừ tháng 10 năm 2019 cho đến nay. Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân giữa bà M và ông Tđã phát sinh mâu thuẫn không thể hàn gắn được và tại phiên tòa hôm nay bà M cương quyết ly hôn cùng ông Tùng. Vì vậy xét thấy cuộc sống hôn nhân giữa bà M và ông Tkhông thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lý Thị Bé M.

[4] Về con chung: Bà M và ông Tcó 01 con chung tên Nguyễn Thị Diễm M, sinh ngày 26/01/2015, hiện đang sống với bà M. Khi ly hôn bà yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi con chung, bà không yêu cầu ông Tcấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, từ khi bà Lý Thị Bé M và ông Nguyễn Thanh T sống ly thân cùng nhau cho đến nay thì cháu Nguyễn Thị Diễm M sống cùng với bà M. Tại phiên tòa bà M có nguyện vọng tiếp tục nuôi con đến trưởng thành, nhằm để tránh cuộc sống hiện tại của cháu Diễm My không bị xáo trộn, không làm ảnh hưởng đến tâm lý và ổn định việc học của cháu Diễm My nên cần tiếp tục giao cháu Nguyễn Thị Diễm M cho bà Lý Thị Bé M tiếp tục nuôi dưỡng đến trưởng thành.

[5] Về cấp dưỡng: Bà Lý Thị Bé M không yêu cầu nên hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Đối với yêu cầu của ông Nguyễn Thanh T yêu cầu được nuôi cháu Nguyễn Thị Diễm M. Xét thất từ khi ông và bà M sống ly thân đến nay thì bà M vẫn đảm bảo chăm sóc đầy đủ cuộc sống về mọi mặt cho cháu Diễm My, bà đi làm có thu nhập ổn định cháu Diễm My cũng đảm bảo được đến trường học hành và phát triển tốt. Ông Tchưa chứng minh được bà M chăm lo cho cháu Diễm My không tốt về mặt nào nên đối với yêu cầu của ông là không có căn cứ nên HĐXX không chấp nhận.

[7] Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

[8] Nợ chung: Không có.

[9] Lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Về án phí sơ thẩm áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bà Lý Thị Bé M phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Khoản 4 điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; Điều 273; Điều 278 và Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Áp dụng khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lý Thị Bé M được ly hôn cùng ông Nguyễn Thanh T.

2. Về con chung: Tiếp tục giao cháu Nguyễn Thị Diễm M, sinh ngày 26/01/2015 cho bà Lý Thị Bé M nuôi dưỡng đến trưởng thành. Ông Nguyễn Thanh T có quyền thăm nom chăm sóc con không ai có quyền cản trở.

3. Về cấp dưỡng: Bà Lý Thị Bé M không yêu cầu nên không đặc ra xem xét.

4. Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

5. Về Nợ chung: Không có.

6. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Lý Thị Bé M phải chịu là 300.000 đồng án phí hôn nhân va gia đinh sơ thẩm, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí bà đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0000088 ngày 10/12/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên.

Báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đối với các đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo được tính kể ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai nơi cư trú, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 22/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:25/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;