Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 16/07/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 25/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/07/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 16 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 176/2020/TLST-HNGĐ ngày 25/5/2020 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 31/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 01/7/2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị U, sinh năm 1989; Có mặt.

Bị đơn: Anh Phạm Văn Đ, sinh năm 1987; Có mặt.

Đều trú tại: Thôn Thủ Công, xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Phạm Thị U trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Phạm Văn Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện và đăng ký kết hôn tại UBND xã Phù Lãng ngày 08/10/2010. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống với nhau ngay. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận đến khi chị sinh bé thứ nhất (năm 2011) thì anh Đ bắt đầu chơi bời, không lo làm ăn, chị và gia đình nhiều lần khuyên bảo, nhưng từ đó đến nay, kể cả khi đã sinh cháu thứ hai thì anh Đ vẫn không thay đổi, ngày càng chơi bời nhiều hơn và còn ngoại tình với người phụ nữ khác. Vợ chồng anh chị đã ly thân từ tháng 01/2018 đến nay. Chị cũng đã cho anh Đ rất nhiều cơ hội để sửa chữa lỗi lầm, nhưng anh Đ vẫn không thay đổi. Nay chị không còn tin anh Đ có thể thay đổi, hiện tại chị đã không còn tình cảm với anh Đ. Vì vậy, chị đề nghị Tòa cho chị được ly hôn với anh Đ.

Về con chung: Vợ chồng có 2 con chung là Phạm Thùy D, sinh ngày 29/9/2014 và Phạm Bảo L, sinh ngày 01/5/2011. Hiện hai cháu khỏe mạnh và đang ở với chị U. Ly hôn chị xin được nuôi cả hai cháu.

Cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu Toà án giải quyết quyết.

Về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn là anh Phạm Văn Đ trình bày: Lời trình bày của chị U về quan hệ hôn nhân và con chung như trên là đúng. Anh Đ thừa nhận đúng là anh đã từng có những lỗi lầm như chị U trình bày ở trên, dẫn đến chị U không còn tình cảm, không còn tin tưởng anh nữa. Tuy nhiên, anh đang cố gắng hàn gắn tình cảm với chị U, anh cũng đã thường xuyên nhắn tin với chị U, đã nhờ bố mẹ đẻ của chị U tác động nhưng chị U vẫn khước từ tình cảm, nguyện vọng của anh. Tuy nhiên, anh Đ thấy mình vẫn còn tình cảm với chị U, muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng nuôi con nên anh không đồng ý ly hôn với chị U.

Về con chung: Vợ chồng có 2 con chung như chị U trình bày. Ly hôn anh xin được nuôi cháu L và để chị U nuôi cháu D.

Cấp dưỡng nuôi anh không đề nghị Tòa giải quyết.

Về tài sản: Không đề nghị Toà giải quyết.

* Tại Biên bản xác minh ngày 25/6/2020, cán bộ địa phương cho biết: Vợ chồng anh Đ, chị U xảy ra mâu thuẫn từ cuối năm 2017, nguyên nhân là do anh Đ làm ăn thất bát, thua lỗ dẫn đến vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, xô sát, cãi nhau. Vợ chồng anh Đ, chị U ly thân khoảng ba năm nay.

* Tại Biên bản ghi lời khai ngày 25/6/2020, có sự chứng kiến của cô giáo chủ nhiệm, cháu Phạm Bảo L trình bày: cháu là con chung của anh Đ, chị U. Nếu anh Đ, chị U ly hôn, cháu L xin được ở với mẹ.

Tại phiên tòa hôm nay, chị U vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn; anh Đ vẫn không đồng ý ly hôn với chị U. Tuy nhiên, nếu vợ chồng ly hôn, chị U và anh Đ cùng thống nhất giao cho chị U trực tiếp nuôi dưỡng cháu D, anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng cháu L, cấp dưỡng nuôi con hai bên đều không yêu cầu giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đều đã tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Về quan điểm giải quyết vụ án, đề nghị HĐXX:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị U đối với anh Đ;

Về con chung, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, giao cháu Phạm Bảo L cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Phạm Thùy D cho chị U trực tiếp nuôi dưỡng. Cấp dưỡng nuôi con không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về tố tụng: Chị Phạm Thị U khởi kiện yêu cầu ly hôn và giải quyết vấn đề nuôi con chung với bị đơn là anh Phạm Văn Đ trú tại thôn Thủ Công, xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, nên quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án này là “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” và Tòa án nhân dân huyện Quế Võ có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.

[2] Về nội dung vụ án:

Về hôn nhân: Chị Phạm Thị U và anh Phạm Văn Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyên và đăng ký kết hôn tại UBND xã Phù Lãng, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Về mâu thuẫn vợ chồng, cả chị U và anh Đ cùng thừa nhận: vợ chồng mâu thuẫn là do anh Đ chơi bời, không lo làm ăn, có quan hệ tình cảm với nhiều người phụ nữ khác. Việc này diễn ra nhiều lần, chị U và gia đình nhiều lần khuyên bảo, nhưng anh Đ không thay đổi. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 01/2018 đến nay.

Mặc dù, quá trình giải quyết vụ án, anh Đ không đồng ý ly hôn, Toà án cũng đã tạo điều kiện để anh Đ hàn gắn tình cảm nhưng chị U cho rằng anh Đ vẫn chưa thực sự thay đổi, thêm nữa chị U đã bị quá nhiều tổn thương do các hành động mà anh Đ gây ra, nay không còn tin anh Đ có thể thay đổi, hiện tại chị không còn tình cảm với anh Đ nữa. Hội đồng xét xử thấy rằng mâu thuẫn giữa vợ chồng chị U và anh Đ đã kéo dài, đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị U với anh Đ.

Về con chung: Tại phiên tòa hôm nay, chị U và anh Đ cùng thống nhất giao cho chị U trực tiếp nuôi dưỡng cháu D, anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng cháu L, cấp dưỡng nuôi con hai bên đều không yêu cầu giải quyết. Xét thấy, sự thỏa thuận này của hai bên đương sự là tự nguyện, phù hợp với pháp luật và không trái đạo Đ. Vì vậy, cần công nhận sự thỏa thuận này của các đương sự.

Vấn đề cấp dưỡng nuôi con các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

Về án phí: Chị U phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147, 246, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

1. Về hôn nhân: Chị Phạm Thị U được ly hôn anh Phạm Văn Đ.

2. Về con chung: Công nhận sự thỏa thuận của chị Phạm Thị U và anh Phạm Văn Đ:

Giao cho chị Phạm Thị U trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phạm Thùy D, sinh ngày 29/9/2014; giao cho anh Phạm Văn Đ trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phạm Bảo L, sinh ngày 01/5/2011. Cấp dưỡng nuôi con chị U và anh Đ đều không có yêu cầu.

Chị U và anh Đ đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị U phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm. Xác nhận chị U đã nộp đủ theo Biên lai thu số 0001020 ngày 25/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ.

Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 16/07/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:25/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;