Bản án 25/2019/HS-ST ngày 28/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 25/2019/HS-ST NGÀY 28/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 26/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Lê Thị H, sinh năm 1984, tại Bình Dương. Hộ khẩu thường trú: Ấp C, xã Đ, huyện D1, tỉnh B; nơi tạm trú: Khu phố 2, thị trấn D, huyện D1, tỉnh B; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thành L, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1960; bị cáo có chồng: Trương Thế M, sinh năm 1986 (đã ly hôn); bị cáo có 02 người con, sinh năm 2007 và sinh năm 2010; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo, bị bắt tạm giam ngày 27/02/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Hoàng P, sinh năm 1998, tại Tây Ninh. Hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã T1, huyện D, tỉnh T2; nơi tạm trú: Khu phố 2, thị trấn D, huyện D1, tỉnh B; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Cao đài; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1968 và con bà Dương Thị G, sinh năm 1968; bị cáo chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo, bị bắt tạm giam ngày 27/02/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Võ Thị G, sinh năm 1960; trú tại: Ấp L, xã L1, huyện D1, tỉnh B. Có đơn xin vắng mặt.

2. Bà Lê Thị Ngân K, sinh năm 1984; trú tại: Ấp L, xã L1, huyện D1, tỉnh B.

Có đơn xin vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Thạch T (vắng mặt).

2. Ông Thạch T (vắng mặt).

3. Ông Hoàng Phi L (vắng mặt).

4. Bà Nguyễn Thị Cẩm N (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Thị H và Nguyễn Hoàng P cùng là đối tượng nghiện ma túy. Tháng 01/2019, H và P thuê phòng trọ số 04 nhà trọ không tên tại thuộc khu phố 2, thị trấn D, huyện D1, tỉnh B để sống chung. Do không có việc làm ổn định lại muốn có tiền tiêu xài nên H bàn với P mua ma túy về chia nhỏ bán lại cho các con nghiện. P đồng ý. Từ đầu tháng 02/2019 cho đến ngày 27/02/2019, H và P đã nhiều lần sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Warn, biển số 61FH-4618 đến khu vực xã T, huyện D, tỉnh T1 mua ma túy của đối tượng tên Đ (không xác định được nhân thân lai lịch).

Sau khi mua ma túy về, H là người phân, chia ma túy thành nhiều liều nhỏ cất giấu tại phòng trọ và là người trực tiếp bán ma túy cho các con nghiện khi có nhu cầu. P ở bên ngoài phòng trọ, hướng dẫn và canh gác khi các con nghiện vào mua ma túy. Bằng thủ đoạn trên, tại phòng trọ của mình H và P đã bán trái phép chất ma túy cho các con nghiện như sau:

1. Thạch T, sinh năm 1998, ngụ khu phố 2, thị trấn D, huyện D1, tỉnh Bình Dương 03 lần, mỗi lần 01 liều giá 200.000 đồng.

2. Vợ chồng Hoàng Phi L, sinh năm 1991 và Nguyễn Thị Cẩm N, sinh năm 1987 cùng ngụ tại khu phố 1, thị trấn D, huyện D1, tỉnh B nhiều lần, mỗi lần giá từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng.

3. Thạch T, sinh năm 2000, ngụ tại khu phố 3, thị trấn D, huyện D1, tỉnh B 02 lần, mỗi lần 01 liều giá 200.000 đồng (Thạch T mua hộ cho Thạch T).

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 27/02/2019, Thạch T đến nhà trọ của H và P mua ma túy về sử dụng. Tại đây, T gặp P hỏi mua ma túy và được P hướng dẫn vào trong phòng gặp H. H đưa cho T 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng thì bị Công an huyện D1 kết hợp cùng Công an thị trấn D bắt quả tang và thu giữ các tang vật như sau:

- 14 đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng đã được niêm phong (thu tại phòng trọ của H và P).

- 01 đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể trắng đã được niêm phong (thu trên người của Thạch T).

- 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy

- 03 kéo bằng kim loại

- 02 quẹt ga đã qua sử dụng

- 04 ống thủy tinh dùng sử dụng ma túy

- 06 đoạn ống hút nhựa

- 01 túi nilong, rỗng, miệng kéo dính

- 01 đồ khò

- Tiền Việt Nam 855.000 đồng.

- 01 điện thoại Sam sung màu trắng, số Imei 353317/09/506385/6

- 01 sim Viettel kèm theo điện thoại có số seri 8984048000011147745

- 01 xe mô tô hiệu Warm zx màu đỏ - đen, biển số 61FH-4618, số khung VDPWCB014DP008125, số máy VDP1P39FMB008125.

Ngày 28/02/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng ra Quyết định trưng cầu giám định số 78/QĐ gửi đến Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương giám định 14 đoạn ống hút nhựa, hàn kín, bên trong chứa tinh thể màu trắng được niêm phong trong bì thư có chữ ký của cán bộ niêm phong ông Trần Viết L, người chứng kiến đối tượng Lê Thị H, Nguyễn Hoàng P, chữ ký của Trưởng công an thị trấn Dầu Tiếng ông Nguyễn Công Đ, có đóng dấu của Công an thị trấn Dầu Tiếng (ký hiệu M1) và 01 đoạn ống hút nhựa, hàn kín, bên trong có chứa tinh thể trắng, được niêm phong trong bì thư dán kín có chữ ký của cán bộ niêm phong ông Trần Viết L, người chứng kiến Thạch T, đối tượng Lê Thị H, chữ ký của Trưởng công an thị trấn Dầu Tiếng ông Nguyễn Công Đ và đóng dấu của Công an thị trấn (ký hiệu M2).

Kết luận giám định số 200/MT-PC09 ngày 26/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy có khối lượng 1,0585 gam (M1); 0,0682 gam (M2) loại Methamphetamine.

Đối với đối tượng tên Đ có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Lê Thị H và Nguyễn Hoàng P do không xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương không có căn cứ để điều tra, làm rõ xử lý; khi nào điều tra được sẽ xử lý sau.

Đối với Thạch T có hành vi cất giấu 0,0682 gam ma túy loại Methamphetamine không đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy nên ngày 20/6/2019 Công an huyện Dầu Tiếng đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 67/QĐ-XPHC.

Ngày 20/6/2019, Công an huyện Dầu Tiếng ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 65/QĐ, 66/QĐ đối với Hoàng Phi L, Nguyễn Thị Cẩm N về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Tại bản Cáo trạng số 28/CT-VKSDT-HS ngày 03/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Lê Thị H, Trần Hoàng P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm b, c Khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo H từ 08 năm đến 09 năm tù. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm b, c Khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo P từ 07 năm đến 08 năm tù.

Về vật chứng: Áp dụng Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điểm a, b, c Khoản 1 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đại diện Viện kiểm sát:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy:

+ Đối với 01 bì thư bên trong chứa 1,0179 gam (M1) và 0,0374 (M2) gam ma túy (khối lượng sau khi giám định) loại Methamphetamine được niêm phong số 200/PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương có chữ ký của người chứng kiến Lê Thị H, cán bộ niêm phong Đoàn Anh N, chữ ký trợ lý giám định Đoàn Nguyễn Thiện Q và hình dấu đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, xét thấy đây là tang vật của vụ án.

+ Đối với 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 03 kéo bằng kim loại; 02 quẹt ga đã qua sử dụng; 04 ống thủy tinh dùng sử dụng ma túy; 06 đoạn ống hút nhựa; 01 túi nilong, rỗng, miệng kéo dính; 01 đồ khò, xét thấy đây là công cụ để các bị cáo Lê Thị H và Nguyễn Hoàng P sử dụng ma túy. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- Đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước:

+ Đối với số tiền Việt Nam 200.000 đồng là số tiền bị can Lê Thị H và Nguyễn Hoàng P bán ma túy cho đối tượng Thạch T có được nên đây là phương tiện để thực hiện tội phạm. (Số tiền này trong tổng số tiền 855.000 đồng đã thu giữ của bị cáo H).

+ Đối với 01 xe mô tô hiệu Warm zx màu đỏ - đen, biển số 61FH-4618, số khung VDPWCB014DP008125, số máy VDP1P39FMB008125. Quá trình điều tra xác định: Ông Trần Văn S, sinh năm 1937, nơi thường trú: ấp 5 (nay là ấp Long Điền), xã L, huyện D1, tỉnh B đứng tên chủ sở hữu. Trước khi chết, ông S cho bà Võ Thị G, sinh năm 1960 là con gái của ông sử dụng. Bà G cho lại con gái là bà Lê Thị Ngân K, sinh năm 1984 sử dụng. Sau đó, bà K bán lại cho bị cáo Nguyễn Hoàng P nhưng không làm thủ tục sang tên. Xét thấy, bị cáo H và P nhiều lần sử dụng xe mô tô này để đi mua ma túy nên đây là phương tiện thực hiện tội phạm.

- Trả cho bị cáo H: Số tiền Việt Nam 655.000 đồng và 01 điện thoại Sam sung màu trắng, số Imei 353317/09/506385/6; 01 sim Viettel kèm theo điện thoại có số seri 8984048000011147745. Xét thấy, đây là tài sản cá nhân không liên quan đến vụ án.

Tại phiên tòa, các bị cáo Lê Thị H, Trần Hoàng P thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để có điều kiện cải tạo thành người công dân tốt.

Những người có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan bà G, bà K xin vắng mặt tại phiên tòa. Những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định về thẩm quyền, trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự và không ai khiếu nại gì về việc tiến hành các hoạt động tố tụng đối với vụ án.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Lê Thị H, Trần Hoàng P thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện: Trong thời gian từ đầu tháng 02 năm 2019 đến ngày 27/02/2019, Lê Thị H và Nguyễn Hoàng P đã nhiều lần đến khu vực xã Truông Mít, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh mua trái phép chất ma túy của đối tượng tên Đ (không xác định được nhân thân lai lịch) đem về chia nhỏ và bán cho Thạch T 03 lần; bán cho Hoàng Phi L và Nguyễn Thị Cẩm N nhiều lần; bán cho Thạch T (mua hộ cho Thạch T) 02 lần tại nhà trọ thuộc khu phố 2, thị trấn D, huyện D1, tỉnh B. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, các bị cáo đã thực hiện việc mua bán ma tuý nhiều lần cho các con nghiện, lấy lợi nhuận để tiêu xài, sử dụng ma túy. Do đó, Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lê Thị H, Trần Hoàng P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm b, c Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, là nguyên nhân làm cho nhiều người phải nghiện thứ chất độc hại mà Nhà nước cấm sử dụng, là một trong những con đường dẫn đến căn bệnh HIV, AIDS và kéo theo nhiều tệ nạn xã hội khác. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực để nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật thế nhưng bị cáo bất chấp hậu quả, quyết tâm thực hiện tội phạm, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Bị cáo là người hiểu rõ nhất về tác hại của chất ma túy, gây ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe con người nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện tội phạm.

[4] Xét hành vi, mức độ phạm tội của bị cáo gây ra là rất nguy hiểm cho xã hội, để đảm bảo công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mà đặc biệt là tội phạm về ma túy trên địa bàn huyện Dầu Tiếng nên cần phải xử lý thật nghiêm, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian dài nhằm có điều kiện giáo dục và cải tạo bị cáo thành người công dân tốt cho xã hội.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo đang nuôi con nhỏ. Đó là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo P là cháu ngoại của bà Dương Thị B được Nhà nước tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Đây là phần thưởng cao quý của nhà nước đối với gia đình bị cáo P do vậy Hội đồng xét xử xem tình tiết này là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ở khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Phú.

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có cân nhắc về việc vai trò đồng phạm của các bị cáo. Trong vụ án này, các bị cáo là đồng phạm giản đơn. Bị cáo H là người trực tiếp mua ma túy, tự phân nhỏ và bán cho các con nghiện khác. Bị cáo P có vai trò giúp sức như điều khiển xe mô tô chở bị cáo H đi mua ma túy; cảnh giới để bị cáo H bán ma túy. Bị cáo H phải chịu hình phạt cao hơn bị cáo P.

[6] Xét ý kiến luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo về phần tội danh, điều khoản truy tố là có căn cứ và phù hợp pháp luật, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Xử lý về vật chứng:

+ Đối với 01 bì thư bên trong chứa 1,0179 gam (M1) và 0,0374 (M2) gam ma túy (khối lượng sau khi giám định) loại Methamphetamine được niêm phong số 200/PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương có chữ ký của người chứng kiến Lê Thị H, cán bộ niêm phong Đoàn Anh N, chữ ký trợ lý giám định Đoàn Nguyễn Thiện Q và hình dấu đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, xét thấy đây là tang vật của vụ án. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị đề nghị tịch thu tiêu hủy là đúng.

+ Đối với 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 03 kéo bằng kim loại; 02 quẹt ga đã qua sử dụng; 04 ống thủy tinh dùng sử dụng ma túy; 06 đoạn ống hút nhựa; 01 túi nilong, rỗng, miệng kéo dính; 01 đồ khò, xét thấy đây là công cụ để các bị cáo Lê Thị H và Nguyễn Hoàng P sử dụng ma túy. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị đề nghị tịch thu tiêu hủy là đúng.

+ Đối với số tiền Việt Nam 200.000 đồng là số tiền bị cáo Lê Thị Huệ và Nguyễn Hoàng P bán ma túy cho đối tượng Thạch T có được nên đây là phương tiện để thực hiện tội phạm là đúng. (Số tiền này trong tổng số tiền 855.000 đồng đã thu giữ của bị cáo H). Đại diện Viện kiểm sát đề nghị đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước là đúng.

+ Đối với 01 xe mô tô hiệu Warm zx màu đỏ - đen, biển số 61FH-4618, số khung VDPWCB014DP008125, số máy VDP1P39FMB008125. Quá trình điều tra xác định: Ông Trần Văn S, sinh năm 1937, nơi thường trú: ấp 5 (nay là ấp Long Điền), xã L, huyện D1, tỉnh B đứng tên chủ sở hữu. Trước khi chết, ông S cho bà Võ Thị G, sinh năm 1960 là con gái của ông sử dụng. Bà G cho lại con gái là bà Lê Thị Ngân K, sinh năm 1984 sử dụng. Sau đó, bà K bán lại cho bị cáo Nguyễn Hoàng P nhưng không làm thủ tục sang tên. Xét thấy, bị cáo H và P nhiều lần sử dụng xe mô tô này để đi mua ma túy nên đây là phương tiện thực hiện tội phạm. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước là đúng.

- Số tiền Việt Nam 655.000 đồng và 01 điện thoại Sam sung màu trắng, số Imei 353317/09/506385/6; 01 sim Viettel kèm theo điện thoại có số seri 8984048000011147745. Xét thấy, đây là tài sản cá nhân không liên quan đến vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị trả cho bị cáo H là đúng quy định.

- Đối với đối tượng tên Đ có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Lê Thị H và Nguyễn Hoàng P do không xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương không có căn cứ để điều tra, làm rõ xử lý; khi nào điều tra được sẽ xử lý sau.

Đối với Thạch T có hành vi cất giấu 0,0682 gam ma túy loại Methamphetamine không đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy nên ngày 20/6/2019 Công an huyện Dầu Tiếng đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 67/QĐ-XPHC là đúng quy định.

Ngày 20/6/2019, Công an huyện Dầu Tiếng ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 65/QĐ, 66/QĐ đối với Hoàng Phi L, Nguyễn Thị Cẩm N về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là đúng quy định.

[8] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Lê Thị H và Nguyễn Hoàng P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

1. Hình phạt:

Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt:

Bị cáo Lê Thị H 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 27 tháng 02 năm 2019.

Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Hoàng P 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 27 tháng 02 năm 2019.

2. Vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

2.1. Tịch thu tiêu hủy:

+ Đối với 01 bì thư bên trong chứa 1,0179 gam (M1) và 0,0374 (M2) gam ma túy (khối lượng sau khi giám định) loại Methamphetamine được niêm phong số 200/PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương có chữ ký của người chứng kiến Lê Thị H, cán bộ niêm phong Đoàn Anh N, chữ ký trợ lý giám định Đoàn Nguyễn Thiện Q và hình dấu đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

+ Đối với 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 03 kéo bằng kim loại; 02 quẹt ga đã qua sử dụng; 04 ống thủy tinh dùng sử dụng ma túy; 06 đoạn ống hút nhựa; 01 túi nilong, rỗng, miệng kéo dính; 01 đồ khò.

2.2. Tịch thu sung quỹ Nhà nước:

+ Đối với số tiền Việt Nam 200.000 đồng (trăm trăm ngàn đồng). (Trong tổng số tiền 855.000 đồng).

+ Đối với 01 xe mô tô hiệu Warm zx màu đỏ - đen, biển số 61FH-4618, số khung VDPWCB014DP008125, số máy VDP1P39FMB008125.

2.3. Trả cho bị cáo H: Số tiền Việt Nam 655.000 đồng (sáu trăm năm mươi lăm ngàn đông) (Số tiền này trong tổng số tiền 855.000 đồng) và 01 điện thoại Sam sung màu trắng, số Imei: 353317/09/506385/6; 01 sim Viettel số seri 8984048000011147745.

(Tất cả tài sản trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/7/2019 và biên lai thu số AA/2014/0002459 ngày 24/7/2019).

3. Án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Án phí hình sự sơ thẩm:

Bị cáo Lê Thị H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).

Bị cáo Nguyễn Hoàng P phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Giàu, bà K vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 25/2019/HS-ST ngày 28/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:25/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;