TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 25/2019/HSST NGÀY 12/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 12 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở UBND thị trấn Hoa Sơn, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 24/2019/TL-HSST ngày 20/3/2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2019/QĐXXST-HS ngày 02/4/2019, đối với bị cáo:
Họ và tên: Đào Như M, sinh ngày 17/8/1983;
Nơi cư trú: tổ dân phố H, thị trấn Hoa Sơn, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 02/12; bố đẻ: Đào Văn H, sinh năm 1962 (đã chết); mẹ đẻ: Hà Thị L, sinh năm 1963, làm ruộng tại thị trấn Hoa Sơn; vợ: Hà Thị Hương, sinh năm 1982 đã ly hôn; con: Có 01 sinh năm 2006; tiền án: Không; tiền sự: Tháng 12/2018 bị Công an huyện Lập Thạch xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 3/01/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: Bà Hà Thị L, sinh năm 1963
Nơi cư trú: TDP Hòa Bình, thị trấn Hoa Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Phúc, có mặt mặt
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1976
Nơi cư trú: thôn Lán Than, xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, vắng mặt.
Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị H
Nơi cư trú: Thôn Lán Than, xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, Vĩnh Phúc, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 09/2018, Đào Như M có mua 01 chiếc Ti vi nhãn hiệu SONY màu đen 48inch với giá 13.500.000đ. Đến tháng 12/2018, do cần tiền mua ma túy sử dụng M đã bán lại cho mẹ đẻ là bà Hà Thị L đang ở chung nhà với M với giá 10.000.000đ. Khoảng 5h30 ngày 03/01/2019, lợi dụng lúc bà L không ở nhà M nảy sinh ý định trộm cắp chiếc Ti vi mang bán lấy tiền mua ma túy sử dụng. M ôm chiếc Ti vi ra gần cổng Trạm y tế thị trấn Hoa Sơn rồi thuê một người không rõ tên, địa chỉ chở xe ôm mang đến nhà Nguyễn Văn T. M thỏa thuận bán chiếc Ti vi cho T với giá 7.500.000đ, sau đó M dùng số tiền 7.000.000đ để mua 89 gói nhỏ ma túy mục đích về sử dụng, còn 500.000đ M tiêu xài cá nhân hết. Sau khi mua được ma túy, M thuê xe ôm chở về khu đồi gần cổng Trạm y tế thị trấn Hoa Sơn. Tại đây M lấy 02 gói nhỏ ma túy ra sử dụng hết, còn 87 gói nhỏ ma túy M cho vào túi áo khoác đang mặc của mình rồi đi bộ về đến tổ dân phố Quảng Khuân, thị trấn Hoa Sơn thì bị Công an huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng gồm: 01 túi nilon màu trắng bên trong có 87 gói nhỏ ma túy, trong các gói nhỏ đều có chất bột màu trắng được niêm phong ký hiệu A1; 02 bơm tiêm có chữ VINAHANKOOK và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quảtang.
Cơ quan CSĐT Công an huyện Lập thạch tiến hành khám xét khẩn cấp người, nơi ở, đồ vật, tài sản của Nguyễn Văn T, thu giữ tại phòng ngủ của T 01 chiếc Ti vi nhãn hiệu SONY màu đen 48inch đã qua sử dụng, T tự khai nhận đó là Ti vi vừa mua của Đào Như M với giá 8.000.000đ, ngoài ra không thu giữ gì khác.
Tại bản kết luận giám định số: 80/KLGĐ ngày 09/01/2019, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Chất bột màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Heroine, có khối lượng là 2,1729g. Trong đó khối lượng Heroin có trong mẫu là 1,7713g.
Tại bản kết luận định giá số 231/KL-HĐĐG ngày 7/01/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lập Thạch, kết luận: Trị giá chiếc Ti vi của bà Hà Thị L là 8.000.000đ. Đào Như M khai nguồn gốc số ma túy trên là mua của Nguyễn Văn T ngày 3/01/2019 với giá 7.000.000đ từ tiền bán chiếc Ti vi trộm cắp quy đổi sang 89 gói nhỏ ma túy Heroine. Quá trình điều tra, T khai nhận mua chiếc Ti vi của M với giá 8.000.000đ trả bằng tiền mặt và không biết đó là tài sản do phạm tội mà có, T không thừa nhận đã bán ma túy cho M, ngoài lời khai của M thì không có tài liệu chứng cứ gì khác chứng minh T là người bán ma túy cho M. Do vậy không đủ cơ sở xác định T có hành vi chứa chấp hoặc tiêu thu tài sản do người khác phạm tội mà có và bán trái phép chất ma túy cho M, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý T. Quá trình điều tra, bà Hà Thị L và Nguyễn Văn T không yêu cầu Đào Như M phải bồi tH dân sự.
Tại bản cáo trạng số: 26/CT-VKS-MT ngày 19 tháng 3 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch truy tố Đào Như M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự và tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên – đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch luận tội đối với bị cáo Đào Như M. Giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Sau khi đánh giḠtính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Đào Như M từ 24 tháng tù đến 27 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là từ 36 tháng tù đến 42 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Truy thu của bị cáo M số tiền 500.000đ để sung quỹ Nhà nước.
Xác nhận ngày 19/03/2019, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà L 01 Ti vi nhãn hiệu SONY màu đen 48inch là hợp pháp.
Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định là 1,7510g ma túy Heroine cùng toàn bộ bao gói; 02 bơm tiêm có chữ VINAHANKOOK.
Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo M phải chịu theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Đào Như M khai nhận toàn bộ hànhvi ngày 03/01/2019 trộm cắp tài sản của bà L và tàng trữ trái phép chất ma túy, nhưnội dung bản cáo trạng đã nêu là đúng, ngoài ra không có lời bào chữa nào khác.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lập Thạch, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bô luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng pháp luật.
[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Đào Như M khai nhận toàn bộ hành vi ngày 03/01/2019, lợi dụng lúc bà L không ở nhà M trộm cắp chiếc Ti vi mang bán cho Nguyễn Văn T với giá 7.500.000đ, sau đó M dùng số tiền 7.000.000đ để mua 89 gói nhỏ ma túy để sử dụng, còn 500.000đ M tiêu xài cá nhân hết. Sau khi mua được ma túy, M thuê xe ôm chở về khu đồi gần cổng Trạm y tế thị trấn Hoa Sơn. Tại đây M sử dụng hết 02 gói ma túy, còn 87 gói ma túy M cho vào túi áo khoác đang mặc rồi đi bộ về đến tổ dân phố Quảng Khuân, thị trấn Hoa Sơn thì bị Công an huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng gồm: 01 túi nilon màu trắng bên trong có 87 gói nhỏ ma túy, trong các gói nhỏ đều có chất bột màu trắng được niêm phong ký hiệu A1; 02 bơm tiêm có chữ VINAHANKOOK.
Xét lời nhận tội của bị cáo Đào Như M phù hợp với các lời khai, bản kiểm điểm của bị cáo, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, tang vật chứng đã thu giữ được, biên bản phạm pháp quả tang và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được thể hiện trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Đào Như M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự và tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
c) Heroine,…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”
Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:“Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000đ … , thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là táo bạo, nguy hiểm cho xã hội. Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo không chịu làm ăn chân chính mà lợi dụng sơ hở của người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, bị cáo biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo đã xâm phạm chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Hành vi của bị cáo gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây dư luận bất bình trong nhân dân. Mặc dù các hành vi liên quan đến ma tuý đã được tuyên truyền giáo dục nhiều, song các tội phạm trên cũng chưa giảm, diễn biến phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn. Bản thân bị cáo M còn là đối tượng nghiện ma túy từ nhiều năm nay. Như vậy cần xét xử thật nghiêm minh trước pháp luật với mức án tù để cải tạo giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe giáo dục, phòng ngừa chung.
Xét về nhân thân bị cáo M thấy rằng: Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2003 bị TAND tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 03 năm tù về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy và Trộm cắp tài sản và đã được xóa án tích. Năm 2009 bị Công an huyện Lập Thạch xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; năm 2010, 2014 bị đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Giáo dục - Lao động xã hội tỉnh Vĩnh Phúc; tháng 12/2018 bị Công an huyện Lập Thạch xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Qua các lần bị xử lý đó bị cáo lại không lấy đó làm bài học để tự tu dường rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm hai tội do lỗi cố ý. Tuy nhiên khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng xem xét các tình tiết là sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra biết ăn năn hối cải, nên Hội đồng xét xử cũng xem xét giảm nhẹ một phần mức hình phạt cho bị cáo. Song cũng cần phải phạt bị cáo một mức án tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, có như vậy mới có đủ điều kiện để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng đồng .... hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” và theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đến năm mươi triệu đồng”. Tuy nhiên theo tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có việc làm ổn định, không có thu nhập, kinh tế gia đình khó khăn. Vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[3] Về xử lý vật chứng vụ án gồm có: Ngày 19/03/2019, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà L 01 Ti vi nhãn hiệu SONY màu đen 48inch, xét thấy việc trả lại tài sản cho bà L là đúng chủ sở hữu nên được xác nhận.
Đối với số tiền 500.000đ còn lại sau khi mua ma túy, số tiền này bị cáo có được do bán chiếc ti vi cho anh T mà có, tuy nhiên anh T không yêu cầu bị cáo phải trả lại cho anh số tiền này, nhưng xét thấy đây là khoản tiền mà bị cáo có được do phạm tội mà có nên cần truy thu của bị cáo số tiền này để sung quy Nhà nước.
Đối với mẫu do cơ quan giám định hoàn trả sau giám định gồm 1,7510g ma túy Heroine cùng toàn bộ bao gói; 02 bơm tiêm có chữ VINAHANKOOK là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.
[4] Về án phí: Bị cáo Đào Như M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Đào Như M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Đào Như M 02 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là 03 năm 06 tháng, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 03/01/2019.
Áp dụng: khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Truy thu của bị cáo M số tiền 500.000đ để sung quỹ Nhà nước.
Xác nhận ngày 19/03/2019 Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà L 01 Ti vi nhãn hiệu SONY màu đen 48inch là hợp pháp.
Tịch thu tiêu hủy số mẫu do cơ quan giám định hoàn trả sau giám định gồm 1,7510g ma túy Heroine cùng toàn bộ bao gói; 02 bơm tiêm có chữVINAHANKOOK.
Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban tH vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo Đào Như M phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo và người bị hại có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày giao nhận bản án hoặc niêm yết tại UBND nơi cư trú của người vắng mặt.
Bản án 25/2019/HSST ngày 12/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 25/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/04/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về