TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HƯƠNG THỦY, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
BẢN ÁN 25/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 23 tháng 11 năm 2018, tại hội trường Tòa án nhân dân thị xã Hương Thủy xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 70/2018/TLST-HNGĐ ngày 11/6/2018 về việc: Ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 16/10/2018, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị H, sinh năm 1992; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 1/13 đường H, tổ 02, phường T, thị xã H, tỉnh T. Chỗ ở hiện nay: Số 5/203 đường N, phường T, thị xã H, tỉnh T.Có mặt.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Minh T, sinh năm 1989; Địa chỉ: Số 1/13 đường H, tổ 02, phường T, thị xã H, tỉnh T. Vắng mặt lần thứ hai.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 07/5/2018 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Huỳnh Thị H trình bày:
Giữa nguyên đơn và bị đơn là anh Nguyễn Minh T sau thời gian quen biết nhau từ năm 2012, sau đó được hai bên gia đình tổ chức lễ hỏi, cưới theo phong tục địa phương và đã tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 26/02/2015 tại Ủy ban nhân dân phường T, thị xã H, tỉnh T. Sau khi kết hôn thì vợ chồng về sống chung tại nhà của cha mẹ anh Nguyễn Minh T tại tổ 02, phường T, thị xã H, tỉnh T. Quá trình chung sống với nhau thời gian đầu anh Nguyễn Minh T lo tu chí làm ăn nên cuộc sống gia đình hạnh phúc, sau khi kết hôn khoảng 5 tháng thì anh Nguyễn Minh T ham chơi cờ bạc, phá tán tài sản của gia đình, không chung thủy. Hiện nay vợ chồng sống ly thân, không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau nên chị Huỳnh Thị H yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Minh T để vợ chồng mỗi người có cuộc sống riêng.
Về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con: Chị Huỳnh Thị H và anh Nguyễn Minh T có 01 người con chung tên Nguyễn Huỳnh Phúc T, sinh ngày 15/6/2015. Chị H có yêu cầu nuôi cháu T đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu anh Nguyễn Minh T cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Chị Huỳnh Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nghĩa vụ về tài sản chung: Chị H trình bày vợ chồng không nợ của ai nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã gửi thông báo thụ lý vụ án cho anh Nguyễn Minh T, nhưng trong thời hạn theo luật định, anh T không có văn bản trình bày ý kiến. Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh T đến làm việc cũng như Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải để các bên đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng anh T không chấp hành giấy triệu tập, Thông báo của Tòa án nên Tòa án không lấy được ý kiến của anh T đối với các yêu cầu của chị H và hòa giải giữa các đương sự.
* Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Thủy tại phiên tòa:
+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Đối với những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, bị đơn chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của bị đơn, chưa chấp hành nghiêm chỉnh giấy triệu tập, thông báo của Tòa án.
+ Phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 39, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 336/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Minh T; Giao người con chung là Nguyễn Huỳnh Phúc T cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Buộc chị Huỳnh Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân thị xã Hương Thủy đã tiến hành các thủ tục cấp tống đạt các văn bản tố tụng để triệu tập anh Nguyễn Minh T đến phiên tòa như: Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập theo đúng quy định tại Điều 177 và Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay anh T vẫn vắng mặt lần thứ hai không có lý do chính đáng.
Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt anh Nguyễn Minh T.
[2] Về nội dung:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Huỳnh Thị H và anh Nguyễn Minh T tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 26/02/2015 tại Ủy ban nhân dân phường T, thị xã H, tỉnh T nên quan hệ hôn nhân giữa hai người là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn do anh T không lo làm ăn, quan tâm đến chị H. Qua xác minh tại gia đình anh T thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh T là do vợ chồng thường xuyên cãi nhau do anh Nguyễn Minh T ham chơi, thường nhậu nhẹt với bạn bè rồi chụp ảnh với người phụ nữ khác đưa lên mạng xã hội dẫn đến chị Huỳnh Thị H ghen tuông. Hiện nay, chị H và anh T đang sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Hội đồng xét xử xét thấy đời sống chung của vợ chồng chị Huỳnh Thị H và anh Nguyễn Minh T không thể kéo dài; tình nghĩa vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn ly hôn của chị H
- Về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con: Chị Huỳnh Thị H và anh Nguyễn Minh T có 01 người con chung tên Nguyễn Huỳnh Phúc T, sinh ngày 15/6/2015.
Hiện nay cháu Nguyễn Huỳnh Phúc T đang sống với chị Huỳnh Thị H và chị Huỳnh Thị H có yêu cầu được tiếp tục nuôi con đến tuổi trưởng thành. Do đó, nhằm đảm bảo sự phát triển về mọi mặt của cháu Thảo cần chấp nhận yêu cầu nuôi con của chị H, giao cháu Nguyễn Huỳnh Phúc T cho chị Huỳnh Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành (Đủ 18 tuổi). Chị H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.
- Về tài sản chung: Chị Huỳnh Thị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không giải quyết.
- Về nghĩa vụ tài sản: Không ai yêu cầu nên Hội đồng xét xử không giải quyết.
[3 Về án phí: Chị Huỳnh Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị H.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Huỳnh Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Minh T.
2. Về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con: Giao cháu Nguyễn Huỳnh Phúc T, sinh ngày 15/6/2015 cho chị Huỳnh Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành (Đủ 18 tuổi). Anh Nguyễn Minh T không phải cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay cháu Nguyễn Huỳnh Phúc T đang sống với chị Huỳnh Thị H.
Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung và nghĩa vụ về tài sản: Không ai yêu cầu nên Hội đồng xét xử không giải quyết.
4. Về án phí: Buộc chị Huỳnh Thị H phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số AA/2013/000483 ngày 11/6/2018 của
Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chị Huỳnh Thị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
5. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 25/2018/HNGĐ-ST ngày 23/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 25/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Hương Thủy - Thừa Thiên Huế |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về