Bản án 25/2017/HS-ST ngày 14/07/2017 về tội vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 25/2017/HS-ST NGÀY 14/07/2017 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP TIỀN TỆ QUA BIÊN GIỚI

Ngày 14 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 20/2017/TLST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2017 đối với bị cáo:

Trần Đức L, sinh năm: 1985 tại tỉnh Bình Phước. Nơi cư trú: Tổ 3, khu phố X, phường Y, thị xã Z, tỉnh Bình Phước; số CMND: 285086xxx; nghề nghiệp: làm rẫy; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; con ông Trần Văn L và bà Dương Thị N; có vợ là Nguyễn Thị Phước H, sinh năm 1985 và 01 con; tiền sự: không; tiền án: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18-4-2017 đến nay. Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 17 giờ ngày 18/4/2017, Trần Đức L nhập cảnh trái phép từ Campuchia về Việt Nam bằng đường tiểu ngạch không có giấy tờ hợp pháp và mang theo 400.700 (bốn trăm nghìn bảy trăm) USD đến chốt cảnh giới Nam Hiệp Thành thuộc ấp Thuận Tây, xã Lợi Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh thì bị Đồn biên phòng Cửa khẩu quốc tế Mộc Bài phối hợp với lực lượng đặc nhiệm Bộ đội Biên phòng tỉnh Tây Ninh kiểm tra, phát hiện bắt quả tang tạm giữ người và vật chứng.

Quá trình điều tra, L khai nhận: Khoảng 08 giờ ngày 17/4/2017, L và Phạm Văn Đ thuê xe từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Cửa khẩu Mộc Bài làm thủ tục xuất cảnh sang Campuchia ăn tết. Sang Campuchia, L và Đ thuê phòng nghỉ lại. Đến khoảng 07 giờ ngày 18/4/2017, Đ lấy túi xách của L ra ngoài, sau đó đem về 400.700 USD, Đ và L cất giấu số tiền trên vào 08 hộp bánh, Đ giao cho L giữ. Đến 16 giờ cùng ngày, Đ và L nhập cảnh về Việt Nam. Đ nhập cảnh về Việt Nam qua Cửa khẩu quốc tế Mộc Bài còn L thuê xe ôm mang theo số tiền 400.700 USD nhập cảnh trái phép về Việt Nam qua chốt kiểm soát Nam Hiệp Thành thuộc ấp Thuận Tây, xã Lợi Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh thì bị bắt. Qua điều tra, Đ không thừa nhận số tiền trên là của mình và không cùng L vận chuyển số tiền trên về Việt Nam.

Tại kết luận giám định số: 1452/C54B ngày 19/5/2017 của Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an xác định số tiền 400.700 (bốn trăm nghìn bảy trăm) USD là tiền thật.

Tại kết luận định giá tài sản số: 15/KL-HĐĐG ngày 26/4/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bến Cầu xác định 400.700 (bốn trăm nghìn bảy trăm) USD có giá trị 9.091.883.000 (chín tỷ không trăm chín mươi mốt triệu tám trăm tám mươi ba nghìn) đồng.

Vật chứng thu giữ: 08 vỏ hộp bánh, 02 bịch ni lon màu trắng, 01 điện thoại di động Nokia màu trắng, 01 giấy phép lái xe mang tên Trần Đức L, 01 giấy đăng ký xe mô tô mang tên Trần Văn L, tiền đô la Mỹ 400.700 USD, tất cả đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh chờ xử lý.

Trần Đức L không có tài sản nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh không kê biên tài sản.

Đối với Phạm Văn Đ không có cơ sở chứng minh đồng phạm với Trần Đức L nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh không xử lý.

Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, vật chứng bị thu giữ như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại bản Cáo trạng số: 21/QĐ-KSĐT ngày 21 tháng 5 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh đã truy tố Trần Đức L về tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới” theo khoản 3 Điều 154 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 3 Điều 154; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Trần Đức L từ 05 (năm) năm đến 06 (sáu) năm tù.

Miễn hình phạt bổ sung.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo qui định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của bị cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bến Cầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Lúc 17 giờ ngày 18 tháng 4 năm 2017, Trần Đức L nhập cảnh trái phép bằng đường tiểu ngạch từ Campuchia vào Việt Nam đem theo số tiền 400.700 USD tương đương 9.091.883.000 (chín tỷ không trăm chín mươi mốt triệu tám trăm tám mươi ba nghìn) đồng không khai báo hải quan thì bị lực lượng Đồn biên phòng Cửa khẩu quốc tế Mộc Bài phối hợp với lực lượng đặc nhiệm Bộ đội Biên phòng tỉnh Tây Ninh phát hiện bắt giữ. Tại kết luận giám định số: 1452/C54B ngày 19/5/2017 của Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an xác định số tiền 400.700 USD là tiền thật. Do đó, hành vi của bị cáo Trần Đức L đã phạm tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới” theo qui định tại khoản 3 Điều 154 Bộ luật Hình sự như luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.

Bị cáo Trần Đức L khai nhận số tiền 400.700 USD là của anh Phạm Văn Đ giao cho bị cáo L vận chuyển về Việt Nam. Nhưng trong quá trình điều tra Đ không thừa nhận số tiền trên là của mình và không cùng bị cáo L vận chuyển số tiền trên về Việt Nam, do đó không có cơ sở xác định Phạm Văn Đ đồng phạm với Trần Đức L.

[3] Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng. Hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an, xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý tiền tệ và xuất nhập cảnh. Bản thân bị cáo biết rõ việc mang tiền qua biên giới phải khai báo Hải quan và các quy định của Nhà nước về việc xuất nhập cảnh nhưng bị cáo không tuân thủ các quy định của pháp luật nên cần có hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi bị cáo đã thực hiện để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Tình tiết tăng nặng: không có.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Về hình phạt bổ sung, theo qui định tại khoản 4 Điều 154 Bộ luật Hình sự 1999, thì bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có tài sản, đang ở cùng với gia đình, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Đối với số tiền 400.700 USD bị cáo vận chuyển trái phép nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 08 vỏ hộp bánh và 02 bịch nilon màu trắng không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu trắng là tài sản của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án đối với bị cáo.

- Đối với 01 giấy phép lái xe số: 698081 mang tên Trần Đức L là tài sản của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo.

- Đối với 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số: 026654 mang tên Trần Văn L là tài sản của ông Trần Văn L không liên quan đến tội phạm cần tuyên trả lại cho ông L. [5] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Đức L phạm tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới”.

Áp dụng khoản 3 Điều 154; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Trần Đức L 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18 tháng 4 năm 2017.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 400.700 (bốn trăm nghìn bảy trăm) USD (hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh đang giữ).

- Tịch thu tiêu hủy 08 vỏ hộp bánh và 02 bịch nilon màu trắng.

- Trả lại 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu trắng cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án đối với bị cáo.

- Trả lại cho bị cáo 01 (một) giấy phép lái xe số: 698081 mang tên Trần Đức L.

- Trả lại cho ông Trần Văn L 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số: 026654 mang tên Trần Văn L.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 01-6-2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 98 và 99 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Trần Đức L phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo Trần Đức L và ông Trần  Văn Lang được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

409
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 25/2017/HS-ST ngày 14/07/2017 về tội vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới

Số hiệu:25/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;