Bản án 250/2019/HNGĐ-ST ngày 19/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 250/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 19 tháng 11 năm 2019, tại Hội trường TAND thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam mở phiên tòa công khai để xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 203/2019/TLST-HNGĐ, ngày 19/9/2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 129/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 18 tháng 10 năm 2019 giữa:

1/Nguyên đơn: Bà Văn Hồ Thị Như H - Sinh năm 1995 (có mặt)

Địa chỉ: Thôn VL, xã ĐQ, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

2/Bị đơn: Ông Nguyễn Tam T - Sinh năm 1995 (vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn NH 1, xã ĐT, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 19 tháng 9 năm 2019 và các lời khai tại Tòa nguyên đơn bà Văn Hồ Thị Như H trình bày: Bà H và ông T kết hôn vào ngày 28/10/2016, có đăng ký kết hôn tại UBND xã ĐT, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Kết hôn trên cơ sở tự nguyện và được sự đồng ý của hai bên gia đình.

Sau khi cưới vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hợp cả về tư tưởng lẫn cách sống nên thường xuyên cải vả, không ai chịu nhường nhịn nhau, mâu thuẫn trầm trọng kéo dài, không chịu đựng được nên bà H đã bồng con về nhà cha, mẹ ruột tại xã Điện Quang sinh sống từ tháng 5/2019 đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn bà H yêu cầu ly hôn ông T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung Nguyễn Hồ Phương Th – Sinh ngày: 26/3/2017. Hiện nay con đang sống với bà H, nay ly hôn bà H có nguyện vọng được nuôi con chung và yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung hằng tháng là 2.000.000 đồng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có Bị đơn ông Nguyễn Tam T trình bày tại các lời khai có trong hồ sơ vụ án như sau: Về thời gian tìm hiểu, kết hôn hoàn toàn thống nhất với lời trình bày của bà H. Trong quá trình chung sống vợ chồng không có mâu thuẫn gì nghiêm trọng, thỉnh thoảng có cãi nhau nhưng đó là việc bình thường trong cuộc sống vợ chồng, ông T không rõ lý do vì sao bà H bồng con về nhà cha mẹ ruột tại Điện Quang sinh sống từ tháng 5/2019 đến nay. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân ông T không đến động viên, khuyên bảo bà H để vợ chồng về đoàn tụ chung sống, bà H tự bồng con đi khỏi nhà chồng thì tự biết quay về. Ông T xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn, nay bà H yêu cầu ly hôn ông T không đồng ý.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung Nguyễn Hồ Phương Th – Sinh ngày: 26/3/2017. Hiện nay con đang sống với bà H, nay ly hôn ông T yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Tự giải quyết.

Tóm tắc ý kiến của Kiểm sát viên:

+ Về việc tuân theo pháp luật: Từ khi thụ lý vụ án Thẩm phán, Thư ký Tòa án và Hội đồng xét xử được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn ông Nguyễn Tam T nhiều lần vắng mặt không có lý do.

+ Về giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX xử cho bà H được ly hôn ông T, giao con Nguyễn Hồ Phương Th cho bà H tiếp tục nuôi dưỡng, buộc ông T cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng là: 2.000.000 đồng, ông T có quyền thăm nom con chung sau khi ly hôn, không ai được cản trở.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Văn Hồ Thị Như H yêu cầu ly hôn và giải quyết con chung đối với ông Nguyễn Tam T, căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 BLTTDS tranh chấp ly hôn và nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện. Ông T hiện nay cư trú tại xã ĐT, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS thì vụ án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

[2] Về thủ tục tố tụng: Ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ 2 nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227 BLTTDS Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông T kết hôn vào ngày 28/10/2016, có đăng ký kết hôn tại UBND xã ĐT, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Quan hệ hôn nhân giữa ông T và bà H là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ.

Sau khi cưới, vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian thì phát sinh mâu thuẩn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hợp, không có tiếng nói chung, không còn tình cảm và cả hai đã sống ly thân từ tháng 5/2019 đến nay. Trong thời gian sống ly thân ông T không tìm cách thuyết phục, động viên bà H về đoàn tụ chung sống, vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt yêu cầu ly hôn của bà H là có căn cứ nên được HĐXX chấp nhận xử cho bà H được ly hôn với ông T phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Xét về con chung: Vợ, chồng có 01 con chung Nguyễn Hồ Phương Thảo – Sinh ngày: 26/3/2017. Cả hai đều có nguyện vọng được nuôi con chung sau khi ly hôn, ông T và bà H có việc làm và thu nhập đảm bảo đủ điều kiện để nuôi con chung, tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét về mọi mặt của con chưa thành niên. Theo khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi…..” cháu Th hiện nay dưới 36 tháng tuổi, còn nhỏ và là bé gái nên cần sự chăm sóc, nuôi dưỡng của người mẹ, hơn nữa cháu Th sống cùng bà H từ nhỏ đến nay, trong thời gian vợ, chồng không sống chung với nhau cháu Th đã sống cùng bà H, được bà H chăm sóc, nuôi dưỡng rất tốt. Do đó để đảm bảo ổn định đời sống vật chất và tinh thần cho con, đồng thời giữ nguyên môi trường sống của con, HĐXX cần phải giao con chung cho bà H tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Bà H yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng. Xét yêu cầu của bà H thấy rằng: Theo khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Bà H yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung là đúng quy định của pháp luật. Mức cấp dưỡng mà H yêu cầu 2.000.000 đồng mỗi tháng là phù hợp. Để đảm bảo lợi ích về mọi mặt cho con và đáp ứng nhu cầu chi phí sinh hoạt hàng ngày của con chưa thành niên, HĐXX buộc ông T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung hằng tháng là 2.000.000 đồng. Thời hạn cấp dưỡng được tính kể từ tháng 12/2019 đến khi con chung đủ 18 tuổi. Sau khi ly hôn, ông T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[6] Về án phí: Căn cứ Luật phí và lệ phí, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội và Điều 147 BLTTDS thì bà H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, ông T phải chịu 300.000 đồng án phí đối với nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 58, 81, 82, 83, 107, 110, 116, 117 Luật Hôn nhân và Gia đình, Điều 468 Bộ luật Dân sự, Luật Phí và lệ phí, điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Văn Hồ Thị Như H đối với ông Nguyễn Tam T về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Văn Hồ Thị Như H và ông Nguyễn Tam T.

2. Về nuôi con chung: Có 01 con chung Giao con Nguyễn Hồ Phương Th – Sinh ngày 26/3/2017 cho bà Văn Hồ Thị Như H trực tiếp nuôi dưỡng (Nguyễn Hồ Phương Th hiện nay đang chung sống cùng bà Văn Hồ Thị Như H).

Buộc ông Nguyễn Tam T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung được thực hiện định kỳ hằng tháng là 2.000.000 đồng (hai triệu đồng). Thời hạn cấp dưỡng được tính kể từ tháng 12/2019 đến khi Nguyễn Hồ Phương Th đủ 18 tuổi.

Sau khi ly hôn, ông Nguyễn Tam T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung theo quy định của luật Hôn nhân và Gia đình.

3. Về án phí : Bà Văn Hồ Thị Như H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu số: 0002146, ngày 19/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Điện Bàn. Bà Văn Hồ Thị Như H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Ông Nguyễn Tam T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí đối với nghĩa vụ cấp dưỡng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án của Tòa gửi đến.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 250/2019/HNGĐ-ST ngày 19/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:250/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Điện Bàn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;