Bản án 249/2021/HSPT ngày 15/06/2021 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 249/2021/HSPT NGÀY 15/06/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Vào ngày 15 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 238/2021/TLPT-HS ngày 05 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo Phạm Quốc H, Nguyễn Văn Q, Bùi Quang T và Nguyễn Phước Vĩnh Th về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2021/HSST-CTN ngày 22/01/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1308/2021/QĐXXPT-HS ngày 19 tháng 5 năm 2021.

BỊ cáo có kháng cáo:

1. PHẠM QUỐC H (tên gọi khác: Tin), sinh ngày 01/5/2001 tại thành phố Đà Nẵng; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: số K75/18 đường H1, Tổ 05 phường H2, quận H3, thành phố Đà Nẵng; trình độ học vấn: 4/12; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; giới tính: Nam; con ông Phạm Quốc Kh và bà Nguyễn Thị Hồng O; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/10/2019; có mặt.

2. NGUYỄN VĂN Q (tên gọi khác: Không), sinh ngày 12/5/2003 tại thành phố Đà Nẵng; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 28, phường B, quận H3, thành phố Đà Nẵng; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Văn T1 và bà Phan Thị Tú N; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 11/3/2020; có mặt.

3. BÙI QUANG T (tên gọi khác: Không), sinh ngày 15/9/2003 tại thành phố Đà Nẵng; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Số K50/17 đường P1, phường H2, quận H3, thành phố Đà Nẵng; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Bùi Quang Tr và bà Phạm Thị Đ; tiền án: Ngày 27/9/2019, bị Công an quận T2, thành phố Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức Cảnh cáo về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác; ngày 06/01/2020, bị Công an quận H3, thành phố Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức Cảnh cáo về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác; tiền án: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 11/3/2020; có mặt.

4. NGUYỄN PHƯỚC VĨNH TH (tên gọi khác: Boy), sinh ngày 01/8/2003 tại thành phố Đà Nẵng; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 31, phường K1, quận N1, thành phố Đà Nẵng; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Phước Vĩnh L và bà Nguyễn Thị Ngọc T3; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 12/5/2020; có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo:

1/ Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Văn Q: Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1974. Nơi cư trú: Tổ 28, phường B, quận H3, thành phố Đà Nẵng (là cha ruột của bị cáo), vắng mặt.

2/ Người đại diện hợp pháp của bị cáo Bùi Quang T: Bà Phạm Thị Đ, sinh năm 1970. Nơi cư trú: K50/17 đường P1, phường H2, quận H3, thành phố Đà Nẵng (là mẹ ruột của bị cáo). Có mặt.

3/ Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Phước Vĩnh Th: Ông Nguyễn Phước Vĩnh L, sinh năm 1977. Nơi cư trú: Tổ 31, phường K1, quận N1, thành phố Đà Nẵng (là cha ruột của bị cáo). Vắng mặt.

- Người bào chữa:

1/ Bào chữa cho bị cáo Phạm Quốc H: Bà Lê Thị Hồng Th1 - Luật sư, Văn phòng Luật sư L2 thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

2/ Bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn Q: ông Ông Quốc Cường - Luật sư, thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

3/ Bào chữa cho bị cáo Bùi Quang T: Ông Nguyễn Văn Phụng - Luật sư, Văn phòng Luật sư L2, thực hiện trợ giúp pháp lý thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

4/ Bào chữa cho bị cáo Nguyễn Phước Vĩnh Th: Bà Nguyễn Thị Kim A - thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo khác; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19h00 ngày 05/10/2019, Tôn Thất H5, Nguyễn Thanh Hoài M, Hồ Quang M (sinh năm 2003, trú tại K2/H16/12 đường V, phường V1, quận T2, thành phố Đà Nẵng) đang ngồi chơi tại khu vực trước Công an phường H4, quận H3, thành phố Đà Nẵng. Lúc này, nhóm thanh niên khoảng 05 người trong đó có Ngô Tiến T4, Nguyễn Minh Tr chạy xe moto đi ngang qua nhìn thấy nhóm Tôn Thất H5 nên xông vào đuổi đánh, nhóm Tôn Thất H5 chạy thoát được.

Tôn Thất H5 gọi điện thoại cho Lê Quang M, M đưa điện thoại cho Phạm Quốc H nghe máy, H5 kể lại sự việc mình cùng nhóm bạn bị nhóm Ngô Tiến T4 đuổi đánh. Nghe xong, H bảo H5 đến quán cà phê số 93 Đường H6, quận L1, thành phố Đà Nẵng. Sau đó, Tôn Thất H5 gặp Nguyễn Văn Q và Nguyễn Thanh Hoài M cả 3 cùng chở nhau đến tại quán cà phê 93 Đường H6. Tại đây, Tôn Thất H5 gặp nhóm bạn gồm: Nguyễn Ngọc H7, Phạm Quốc H, Nguyễn Huỳnh Đức V2, Lương Quý H7, Bùi Quang T, Nguyễn Phước Vĩnh Th, Lê Quang M và Vũ Lùn, “Tum” (chưa rõ lai lịch). H5 cùng Nguyễn Thanh Hoài M kể lại sự việc mình vừa bị nhóm của Ngô Tiến T4 đuổi đánh cho cả nhóm bạn nghe. Nguyễn Ngọc H7 bảo “Để đó từ từ tính”. Lúc này, Tôn Thất H5 nhờ Nguyễn Văn Q chở về nhà, Q chở H5 về rồi quay lại quán cà phê, Nguyễn Thanh Hoài M mượn xe đi chở Đào Anh H5 đến để tập trung tại quán cà phê.

Đến khoảng 21h30 thì H7 và nhóm bạn thống nhất cùng nhau xuống tìm nhóm Ngô Tiến T4 để đánh trả thù, H7 lấy xe moto của một người bạn trong nhóm đi ra khu vực bụi cây trên trục đường N2, quận L1, thành phố Đà Nẵng để lấy hung khí gồm 01 cây kiếm, 01 cây mác, 02 cây dao tự tạo đã cất giấu từ trước về chia cho cả nhóm. H7 cầm 01 cây kiếm, H cầm 01 cây mác, Th cầm 01 cây dao tự tạo và đưa cho “Vũ lùn” cầm 01 cây dao tự tạo rồi cùng nhau đi tìm nhóm Ngô Tiến T4 để đánh trả thù. “Vũ Lùn” chở Nguyễn Ngọc H7; “Tum” chở Nguyễn Huỳnh Đức V2 và Lê Quang M; Nguyễn Thanh Hoài M chở Đào Anh H5 và Nguyễn Phước Vĩnh Th; Nguyễn Văn Q chở Phạm Quốc H; Lương Quý H7 chở Bùi Quang T đi tìm nhóm Ngô Tiến T4, khi đến đoạn đường Ông Ích Khiêm, quận H3, thành phố Đà Nẵng thì gặp nhóm của Ngô Tiến T4 gồm khoảng 06 người đang điều khiển xe máy lưu thông phía trước trong đó có Nguyễn Minh Tr.

Thấy nhóm H7 phía sau, nhóm T4 dừng xe nhặt gạch ném về phía nhóm của H7, lúc này nhóm của H7 cũng dừng xe cầm hung khí xông lên đuổi đánh nhóm của T4, nhóm của T4 ít người hơn nên thất thế bỏ chạy. Thấy vậy, nhóm H7 cầm hung khí đuổi theo, Tr chạy sau bị vấp ngã nên H7 đuổi kịp, H7 dùng kiếm chém vào người Tr nhiều nhát, lúc này Phạm Quốc H chạy đến dùng cây mác chém vào đầu Tr làm vỡ mũ bảo hiểm, sau khi vỡ mũ bảo hiểm H tiếp tục chém vào đầu Tr gây ra vết thương trên đỉnh đầu, V2 nhặt đá ném về phía Tr nhưng không trúng, H7 tiếp tục dùng kiếm đâm một nhát vào bụng Tr gây ra vết thương thấu bụng, thấy Tr máu chảy và nằm bất động dưới đường, Bùi Quang T nói cả nhóm dừng lại, tất cả lên xe chạy về lại khu vực đường trục đường 60 N2. Tại đây, H7 lấy lại hung khí sau đó chạy đến khu vực cầu Thuận Phước vứt, còn cả nhóm giải tán đi về. Nguyễn Minh Tr được người dân đưa đi cấp cứu.

* Hậu quả:

- Theo Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 395/TgT ngày 27/12/2019 của Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế thành phố Đà Nẵng kết luận Nguyễn Minh Tr bị thương tích như sau:

- Chấn thương sọ não: Nứt, vỡ sọ đỉnh phải, tụ máu rãnh não và dưới màng cứng đỉnh phải, tụ khí nội sọ và phù não đã điều trị.

+ Vết thương thấu bụng: Máu tụ ổ bụng và sau phúc mạc đã điều trị phẫu thuật thám sát lấy máu tụ và khâu lỗ thủng phúc mạc.

+ Các tổn thương phần mềm khác.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do vết thương tích gây nên hiện tại của Nguyễn Minh Tr là: 55%.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2021/HSST-CTN ngày 22/01/2021, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Phạm Quốc H, Nguyễn Phước Vĩnh Th, Nguyễn Văn Q, Bùi Quang T phạm tội “Giết người”.

- Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 57 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt Phạm Quốc H 10 (mười) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/10/2019.

- Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 57; Điều 91; Điều 101; Điều 102 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Văn Q 04 (Bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/3/2020.

Xử phạt Bùi Quang T 05 (Năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/3/2020.

- Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 57; Điều 91; Điều 101; Điều 102 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Phước Vĩnh Th 05 (Năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/5/2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm tuyên hình phạt đối với các bị cáo khác, quyết định về bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Phạm Quốc H, Nguyễn Văn Q, Bùi Quang T, Nguyễn Phước Vĩnh Th kháng cáo xin giảm nhẹ kháng cáo và người đại diện hợp pháp cho bị cáo Bùi Quang T là bà Phạm Thị Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Bùi Quang T.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo do mức hình phạt cấp sơ thẩm tuyên là thỏa đáng, không có tình tiết giảm nhẹ nào mới trong giai đoạn phúc thẩm nên cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo Phạm Quốc H cho rằng sau khi phạm tội bị cáo khai báo thành khẩn, phạm tội một phần có thái độ buồn chán khi cha mẹ ly hôn không quan tâm đến con cái nên đề nghị Hội đồng xét xử chiếu cố chấp nhận kháng cáo giảm hình phạt cho bị cáo.

- Trợ giúp viên pháp lý cho bị cáo Nguyễn Văn Q đánh giá vai trò phạm tội của bị cáo chỉ là người đi theo, còn lứa tuổi vị thành niên bản tính tò mò, hiếu kỳ mà phạm tội, không gây hậu quả trực tiếp cho người bị hại; thể hiện ăn năn, hối cải khi tác động gia đình bồi thường đầy đủ ở giai đoạn sơ thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo sớm trở về hòa nhập cộng đồng.

- Trợ giúp viên pháp lý cho bị cáo Bùi Quang T có quan điểm bị cáo T thực hiện hành vi phạm tội với vai trò mờ nhạt, không trực tiếp gây ra thương tích cho người bị hại, bị cáo có hành vi ngăn cản đồng bọn chấm dứt hành vi tiếp tục tấn công người bị hại, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thêm về việc bị cáo phạm tội ở độ tuổi chưa trưởng thành, xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

- Trợ giúp viên pháp lý cho bị cáo Nguyễn Phước Vĩnh Th đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết khắc phục hậu quả tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm một phần hình phạt cho bị cáo do cấp sơ thẩm thiếu sót không áp dụng. Mặt khác mức hình phạt đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc nên cần chiếu cố xem xét thêm bị cáo phạm tội ở lứa tuổi vị thành niên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Các bị cáo có mặt tại phiên tòa phúc thẩm đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu chứng cứ được thu thập có tại hồ sơ vụ án; do đó, có đủ cơ sở kết luận: Do có mâu thuẫn với nhau từ trước, tối ngày 05/10/2019, Ngô Tiến T4, Nguyễn Minh Tr cùng một số đối tượng chạy xe mô tô đi ngang qua khu vực trước Công an phường H4, quận H3, thành phố Đà Nẵng thì nhìn thấy Nguyễn Thanh Hoài M, Tôn Thất H5, Hồ Quang M đang ngồi chơi nên xông vào đuổi đánh; nhóm Nguyễn Thanh Hoài M chạy thoát được. Sau đó, Tôn Thất H5, Nguyễn Thanh Hoài M kể lại sự việc mình vừa bị nhóm của Ngô Tiến T4 đuổi đánh với nhóm bạn của mình. Sau khi nghe H5, Hoài M kể lại sự việc, các bị cáo Nguyễn Ngọc H7, Phạm Quốc H, Nguyễn Huỳnh Đức V2, Nguyễn Thanh Hoài M, Nguyễn Văn Q, Lương Quý H7, Bùi Quang T, Nguyễn Phước Vĩnh Th, Lê Quang M, Đào Anh H5 chuẩn bị nhiều hung khí như kiếm, mác, mã tấu rồi sử dụng xe mô tô đi trên nhiều tuyến đường tìm nhóm của Ngô Tiến T4 để đánh trả thù.

Đến khoảng 21 giờ 30 phút ngày 05/10/2019, sau khi phát hiện nhóm của Ngô Tiến T4 tại Đường Ông ích Khiêm, các bị cáo đã dùng hung khí rượt đuổi, đánh chém nhóm của Ngô Tiến T4. Nguyễn Ngọc H7 đã dùng kiếm chém nhiều nhát vào người và đâm vào vùng bụng của Nguyễn Minh Tr; Phạm Quốc H cầm mác chém vào đầu Nguyễn Minh Tr làm vỡ mũ bảo hiểm, H tiếp tục chém vào đầu gây ra vết thương đỉnh đầu. Khi thấy Nguyễn Minh Tr chảy nhiều máu, nằm bất động dưới vỉa hè đường thì cả nhóm lên xe tẩu thoát khỏi hiện trường; hậu quả Nguyễn Minh Tr bị nhiều thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 55%.

Các bị cáo đã sử dụng các loại hung khí nguy hiểm đánh, chém nhiều nhát vào vùng trọng yếu trên cơ thể của người bị hại như đầu, bụng và nhiều vết thương khác dẫn đến khả năng tước đoạt sinh mạng rất cao. Tuy nhiên, bị hại Nguyễn Minh Tr không chết là do được phát hiện cấp cứu, điều trị kịp thời. Với hành vi phạm tội như trên, nên Tòa án cấp sơ thẩm kết án các bị cáo về tội “Giết người” theo Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2]. Trong vụ án này, sau khi nghe Tôn Thất H5 kể lại sự việc bị nhóm của Ngô Tiến T4 đuổi đánh, Nguyễn Ngọc H7 là người đi lấy hung khí gồm kiếm, mác, đao tự chế về phân chia cho các đồng phạm, rồi cùng nhau đi tìm nhóm của Ngô Tiến T4 để đánh trả thù. Nguyễn Ngọc H7 đã sử dụng kiếm, trực tiếp chém nhiều nhát vào người và đâm vào bụng của Nguyễn Minh Tr; Phạm Quốc H sử dụng cây mác chém vào tay, đầu Nguyễn Minh Tr làm bể mũ bảo hiểm, bị cáo tiếp tục chém vào đầu gây vết thương trên đỉnh đầu Nguyễn Minh Tr; còn Nguyễn Huỳnh Đức V2 thì dùng gạch, Đào Anh H5 dùng ghế nhựa ném Nguyễn Minh Tr. Như vậy, thương tích của Nguyễn Minh Tr là do Nguyễn Ngọc H7 và Phạm Quốc H trực tiếp gây ra. Còn các bị cáo: Nguyễn Huỳnh Đức V2, Nguyễn Phước Vĩnh Th, Nguyễn Thanh Hoài M, Nguyễn Văn Q, Bùi Quang T, Lương Quý H7, Lê Quang M, Đào Anh H5 mặc dù không trực tiếp gây thương tích cho Nguyễn Minh Tr nhưng đã thống nhất ý chí cùng đi đánh nhau trả thù, sử dụng xe mô tô chở các bị cáo khác đuổi đánh và rời khỏi hiện trường, nên hành vi phạm tội các bị cáo là đồng phạm với các bị cáo Nguyễn Ngọc H7 và Phạm Quốc H.

[3]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nghiêm trọng, thể hiện tính chất côn đồ hung hãn, coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác, coi thường trật tự an toàn xã hội; chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống hàng ngày với nhóm của Ngô Tiến T4, còn có nhiều biện pháp khác nhau để giải quyết, nhưng các bị cáo đã thống nhất, cùng nhau chuẩn bị hung khí rồi đi tìm nhóm của Ngô Tiến T4 để đánh trả thù. Khi phát hiện nhóm của Ngô Tiến T4, các bị cáo đã cầm hung khí lao vào tấn công, đuổi chém Nguyễn Minh Tr đến khi nằm bất động mới rời khỏi hiện trường. Do đó, hành vi phạm tội của các bị cáo đã phạm vào tình tiết định khung tăng nặng “Có tính chất côn đồ” được quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt cao nhất là Tử hình, nên cần phải xử phạt các bị cáo mức hình phạt nghiêm minh mới đủ tác dụng cải tạo giáo dục đối với các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4]. Xét kháng cáo của các bị cáo Phạm Quốc H, Nguyễn Văn Q, Bùi Quang T, Nguyễn Phước Vĩnh Th và kháng cáo của bà Phạm Thị Đ - đại diện hợp pháp của bị cáo Bùi Quang T, thấy:

Hành vi phạm tội của Phạm Quốc H là hết sức nguy hiểm, cùng với Nguyễn Ngọc H7, bị cáo đã dùng mác chém vào đầu, tay của bị hại Nguyễn Minh Tr làm bể mũ bảo hiểm, rồi tiếp tục chém vào đầu gây vết thương trên đỉnh đầu làm nứt, vỡ sọ đỉnh phải, tụ máu rãnh não, tụ khí nội sọ, phù não. Các bị cáo khác gồm: Nguyễn Phước Vĩnh Th, Nguyễn Văn Q, Bùi Quang T thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm tích cực, tạo thành số đông, giúp sức về mặt tinh thần. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá đúng vai trò, tính chất mức độ thực hiện hành vi phạm tội của từng bị cáo; áp dụng đúng, đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và áp dụng nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, từ đó tuyên phạt Phạm Quốc H 10 năm tù; Bùi Quang T và Nguyễn Phước Vĩnh Th mỗi bị cáo 05 năm tù; Nguyễn Văn Q 04 năm tù là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội và hậu quả do các bị cáo gây ra; mức hình phạt trên đối với từng bị cáo là đã xem xét nên không nặng. Mặt khác, sau khi xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, các bị cáo không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì thể hiện các bị cáo có tình tiết giảm nhẹ mới mà Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét, áp dụng. Do đó, kháng cáo xin giảm hình phạt của các bị cáo và đại diện hợp pháp của bị cáo T là không có căn cứ để xem xét, chấp nhận nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận các kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tại phần quyết định mức hình phạt của bị cáo Nguyễn Phước Vĩnh Th, cấp sơ thẩm có thiếu sót về áp dụng tình tiết tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, nhưng phần nhận định có đánh giá áp dụng tình tiết này cho bị cáo, do vậy Hội đồng xét xử bổ sung cho phù hợp với quy định pháp luật.

[5]. Do không được chấp nhận kháng cáo, nên các bị cáo Phạm Quốc H, Nguyễn Văn Q, Bùi Quang T, Nguyễn Phước Vĩnh Th phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì những lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự;

1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phạm Quốc H, Nguyễn Văn Q, Bùi Quang T, Nguyễn Phước Vĩnh Th và đại diện hợp pháp của bị cáo Bùi Quang T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 57 Bộ luật hình sự; xử phạt: Phạm Quốc H 10 (Mười) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/10/2019.

- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 57; Điều 91; Điều 101; Điều 102 Bộ luật Hình sự, xử phạt:

+ Bùi Quang T 05 (Năm) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/3/2020.

+ Nguyễn Văn Q 04 (Bốn) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/3/2020.

- Nguyễn Phước Vĩnh Th 05 (Năm) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/5/2020.

- Các bị cáo đều bị xử về tội “Giết người”.

2. Các bị cáo Phạm Quốc H, Nguyễn Văn Q, Bùi Quang T, Nguyễn Phước Vĩnh Th: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2021/HSST-CTN ngày 22/01/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

382
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 249/2021/HSPT ngày 15/06/2021 về tội giết người

Số hiệu:249/2021/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;