Bản án 249/2020/HS-PT ngày 18/09/2020 về tội đánh bạc và gá bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 249/2020/HS-PT NGÀY 18/09/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ GÁ BẠC

Trong các ngày 17 – 18 tháng 9 năm 2020, tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 210/2020/TLPT-HS ngày 22 tháng 7 năm 2020, do có kháng cáo của các bị cáo Hà Văn T, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Văn H và Trần Văn T2 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 10/2020/HS- ST ngày 20 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk.

Các bị cáo có kháng cáo:

01. Hà Văn T, sinh năm 1983, tại tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Thôn 18, xã E, huyện M, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 5/12; con ông Hà Văn C và bà Hồ Thị P; bị cáo có vợ là Đoàn Thị H và có 04 con (con lớn nhất sinh năm 2004, con nhỏ nhất sinh năm 2019); tiền án, tiền sự: Không:

Nhân thân: Ngày 25/01/2018 bị Công an huyện M xử phạt hành chính với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 13/8/2019 đến ngày 19/8/2019, được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

02. Nguyễn Văn T1, sinh năm 1973, tại tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn 18, xã E, huyện M, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 5/12; con ông Nguyễn Văn Tr (đã chết) và bà Nguyễn Thị G; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị N và có 02 con (con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2003); tiền án: Tại Bản án số 37/2019/HSST ngày 22/7/2019 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk tuyên phạt 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”; tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

03. Nguyễn Văn H, sinh năm 1984, tại tỉnh Hưng Yên; nơi cư trú: Tổ dân phố 5, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 12/12; con ông Nguyễn Văn Q và bà Trần Thị H; bị cáo có vợ là Bùi Thị B và có 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không:

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 13/8/2019 đến ngày 19/8/2019, được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

04. Trần Văn T2, sinh năm 1984, tại tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Thôn 17, xã E, huyện M, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 11/12; con ông Trần Văn D (đã chết) và con bà Lê Thị K; tiền án, tiền sự: Không:

Nhân thân: Tại bản án số 09/HSST ngày 25/4/2002, bị Toà án nhân dân huyện M’Đrắk tuyên phạt cảnh cáo về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 13/8/2019 đến ngày 19/8/2019, được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Văn T2 và Nguyễn Văn T1: Ông Đinh Xuân T – Luật sư Văn phòng luật sư A, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo Lý Văn N, Nguyễn Đ, Trần Văn B nhưng không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 ngày 12/8/2019, Hà Văn T đang ở nhà thì có Trần Văn T2, Nguyễn Văn H cùng một số đối tượng (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đến nhà T để đánh bạc với hình thức "Xóc đĩa". Trong đó, T sử dụng 600.000 đồng, T2 đưa cho H 12.000.000 đồng để đánh bạc còn T2 không trực tiếp tham gia. Quá trình đánh bạc thì một người đàn ông lạ mặt (chưa xác định được nhân thân lai lịch) đã cầm cái cho T, H và những người còn lại đánh bạc với nhau. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày thì tất cả nghỉ chơi, lúc này T đã thua hết số tiền mình có dùng để đánh bạc từ đầu, H thắng được khoảng 8.000.000 đồng và H đưa lại hết toàn bộ số tiền thắng được cùng với số tiền ban đầu T2 đưa tổng cộng khoảng 20.000.000 đồng để T2 cất giữ. Sau khi những người lạ mặt bỏ đi hết thì chỉ còn lại T2 và H ở nhà T, vì mới ở quê vào nên T làm cơm mời T2, H ở lại cùng một số bạn bè thân quen của T tới nhà T ăn cơm tối. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, sau khi ăn uống xong, mọi người rủ nhau đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức "xóc đĩa" và bài “Senko” tại phòng bếp của nhà T, thống nhất mỗi người chơi đóng 50.000 đồng tiền “xâu” cho T nên T, H, T2, Nguyễn Văn T1, Lý Văn N và Trần Văn B cùng đồng ý, sau đó có thêm Nguyễn Đ đến tham gia đánh bạc. T1 là người cầm cái xóc cho T, H, N, B và Đ tham gia đặt cược “chẵn” và “lẻ”, còn T2 không trực tiếp tham gia đánh bạc mà chỉ cung cấp tiền để H đánh bạc với mục đích là sau khi H đánh xong thì T2 và H sẽ cùng nhau chia đều số tiền T bạc được. Ngoài đặt cược “chẵn” và “lẻ”, H còn đồng thời làm cái bài “Senko” để tự mình ăn thua với người chơi nào có nhu cầu đặt cược với H.

Với cách chơi xóc đĩa “chẵn”, “lẻ” và bài “Senko”, T1 và H đã đồng thời làm cái cho N, B, Đ và T đánh bạc được thua bằng tiền với nhau, cụ thể các đối tượng khai nhận đã đem theo số tiền để đánh bạc là Đ: 1.600.000 đồng, N:

500.000 đồng, T1: 650.000 đồng, Đ: 470.000 đồng, H và T2 chung nhau số tiền 20.000.000 đồng. T thu được: 450.000 đồng tiền “xâu” và sử dụng số tiền này để đánh bạc cùng những người chơi. Đến 23 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Lực lượng Công an bắt quả tang.

Tổng số tiền các đối tượng dùng vào việc đánh bạc là 34.320.000 đồng. Trong đó thu giữ trên chiếu bạc 16.900.000 đồng và thu giữ trên người các đối tượng sử dụng vào mục đích đánh bạc là 17.420.0000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 10/2020/HSST ngày 20/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hà Văn T phạm tội “Đánh bạc” và “Gá bạc”. Các bị cáo Nguyễn Văn H, Trần Văn T2, Nguyễn Văn T1 phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm c khoản 1 Điều 322, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự (điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS chỉ áp dụng đối với tội Đánh bạc):

Xử phạt bị cáo Hà Văn T 01 (Một) năm tù về tội “Gá bạc” và 08 (tám) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 BLHS buộc bị cáo Hà Văn T phải chấp hành hình phạt chung là 01 (Một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 13/8/2019 đến ngày 19/8/2019.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 01 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 13/8/2019 đến ngày 19/8/2019.

Xử phạt bị cáo Trần Văn T2 10 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 13/8/2019 đến ngày 19/8/2019.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T1 08 tháng tù. Áp dụng Điều 56 và khoản 5 Điều 65 BLHS để tổng hợp hình phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Đánh bạc” theo Bản án số 37/2019/HSST ngày 22/7/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 Bản án là 03 (Ba) năm 02 (Hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/10/2018 đến ngày 14/12/2018.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt đối với các bị cáo khác, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm: Ngày 26/5/2020, ngày 05/6/2020 bị cáo Hà Văn T và Nguyễn Văn T1 kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt Ngày 25/5/2020, ngày 04/6/2020, bị cáo Nguyễn Văn H và Trần Văn T2 kháng cáo với nội dung xin được hưởng án treo. Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo xin không áp dụng hình phạt tù đối với các bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo và khẳng định Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Hà Văn T về tội: “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 và tội “Gá bạc” theo điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự; Các bị cáo Nguyễn Văn H, Trần Văn T2, Nguyễn Văn T1 về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Về nội dung kháng cáo của các bị cáo:

- Đối với Hà Văn T, Nguyễn Văn H và Trần Văn T2: Các bị cáo tự khai nhận hành vi đánh bạc vào buổi chiều cùng ngày nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết “Người phạm tội tự thú” quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 BLHS cho các bị cáo là thiếu sót, cần áp dụng thêm cho các bị cáo. Bị cáo Nguyễn Văn H và Trần Văn T2 mặc dù phạm tội nhiều lần nhưng chỉ lấy số tiền đánh bạc của buổi chiều để tiếp tục đánh bạc vào buổi tối cùng ngày. Bị cáo H có nhân thân tốt, bị cáo T2 là con duy nhất đang nuôi mẹ già. Bị cáo T cung cấp thêm tài liệu thể hiện bị cáo có bác là người có công với cách mạng. Do đó, cần chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.

- Đối với Nguyễn Văn T1: Bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách nên mức hình phạt cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là tương xứng nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo T1.

Đề nghị HĐXX:

- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm c khoản 1 Điều 322, điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự (điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS chỉ áp dụng đối với tội Đánh bạc). Xử phạt bị cáo Hà Văn T 01 (Một) năm tù về tội “Gá bạc” và 06 (Sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 36 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H và bị cáo Trần Văn T2 từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng cải tạo không giam giữ.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T1 08 tháng tù.

Luật sư bào chữa cho bị cáo T2 và T1 trình bày: Các bị cáo đều có hoàn cảnh rất khó khăn, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật hạn chế. Số tiền đánh bạc không lớn, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bị cáo T2 là con duy nhất đang còn nuôi mẹ già nên đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, đồng thời miễn giảm án phí cho bị cáo T2.

Các bị cáo không tranh luận bào chữa gì mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 14 giờ 30 ngày 12/8/2019, tại nhà của Hà Văn T, Hà Văn T cùng Trần Văn T2, Nguyễn Văn H và một số đối tượng (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đánh bạc được thua bằng tiền với hình thức "Xóc đĩa". Trong đó, T sử dụng 600.000 đồng, T2 đưa cho H 12.000.000 đồng để đánh bạc nhằm chia nhau số tiền thắng bạc.

Khoảng 20 giờ cùng ngày 12/8/2019, Hà Văn T cho Nguyễn Văn H, Trần Văn T2, Nguyễn Văn T1, Lý Văn N, Nguyễn Đ và Trần Văn B đánh bạc tại nhà mình để thu tiền xâu và dùng số tiền này để cùng tham gia đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức “xóc đĩa” và bài “Senko”. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày thì Công an tỉnh Đắk Lắk phát hiện bắt quả tang, thu giữ trên chiếu bạc số tiền 16.900.000 đồng, trên người các bị cáo dùng để đánh bạc số tiền 17.420.0000 đồng. Trong đó, bị cáo T1 sử dụng 650.000 đồng, bị cáo H và T2 chung nhau số tiền 20.000.000 đồng, bị cáo T thu 450.000 đồng tiền “xâu” và sử dụng số tiền này để đánh bạc. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Hà Văn T về tội: “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 và tội “Gá bạc” theo điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự; Các bị cáo Nguyễn Văn H, Trần Văn T2, Nguyễn Văn T1 về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.

[2]. Xét kháng cáo của các bị cáo Hà Văn T, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Văn H và Trần Văn T2. Hội đồng xét xử XÉT THẤY

[2.1] Đối với bị cáo Hà Văn T: Ngày 25/01/2018, bị cáo bị Công an huyện M xử phạt hành chính với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc. Đến ngày 12/8/2019, bị cáo 02 lần sử dụng nhà ở của mình làm địa điểm để cho các bị cáo khác tham gia đánh bạc và thu tiền xâu, đồng thời tham gia đánh bạc 02 lần trong ngày nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội hai lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đối với tội Đánh bạc. Sau khi bị bắt quả tang, bị cáo tự khai nhận hành vi đánh bạc vào chiều ngày 12/8/2019 nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết “Người phạm tội tự thú” là thiếu sót, cần áp dụng thêm cho bị cáo. Mặc dù có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, nhưng mức hình phạt mà cấp sơ thẩm tuyên phạt đối với bị cáo là đã có phần nhẹ, do đó không có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

[2.2] Đối với bị cáo Nguyễn Văn T1: Tại Bản án số 37/2019/HSST ngày 22/7/2019 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk tuyên phạt 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”. Ngày 12/8/2019, bị cáo tiếp tục tham gia đánh bạc trong thời gian thử thách của Bản án trước. Hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện sự xem thường pháp luật, không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân. Cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 08 tháng tù là thỏa đáng, nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[2.3] Đối với bị cáo Nguyễn Văn H và Trần Văn T2: Bị cáo Nguyễn Văn H được Trần Văn T2 đưa tiền cho đánh bạc nhằm chia nhau số tiền thắng bạc. Mặc dù các bị cáo đều 02 lần đánh bạc nhưng lấy số tiền đánh bạc buổi chiều để tiếp tục đánh bạc buổi tối cùng ngày. Trước khi phạm tội, bị cáo Nguyễn Văn H là người có nhân thân tốt. Quá trình điều tra, cả hai bị cáo đều đã tự khai nhận hành vi đánh bạc vào buổi chiều cùng ngày nên cần áp dụng thêm tình tiết “Người phạm tội tự thú” quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 BLHS cho các bị cáo. Các bị cáo đều có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội ít nghiêm trọng, ngoài ra bị cáo T2 là con duy nhất trong gia đình, đang nuôi mẹ già trên 70 tuổi. Do đó, không cần thiết áp dụng hình phạt tù mà chỉ cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với các bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật. Các bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên miễn khấu trừ thu nhập đối với các bị cáo.

[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4]. Về án phí: Do không được chấp nhận kháng cáo nên các bị cáo Hà Văn T, Nguyễn Văn T1 phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Hà Văn T, Nguyễn Văn T1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H và bị cáo Trần Văn T2.

Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 10/2020/HSST ngày 20/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk:

[2]. Điều luật áp dụng và mức hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm c khoản 1 Điều 322; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự (điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS chỉ áp dụng đối với tội Đánh bạc).

Xử phạt bị cáo Hà Văn T 01 (Một) năm tù về tội “Gá bạc” và 08 (Tám) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 BLHS, buộc bị cáo Hà Văn T phải chấp hành hình phạt chung là 01 (Một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 13/8/2019 đến ngày 19/8/2019.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 36 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 02 năm 03 tháng 18 ngày cải tạo không giam giữ. Được khấu trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 13/8/2019 đến ngày 19/8/2019. Bị cáo còn phải chấp hành 02 năm 03 tháng cải tạo không giam giữ.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T2 02 năm 18 ngày cải tạo không giam giữ. Được khấu trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 13/8/2019 đến ngày 19/8/2019. Bị cáo còn phải chấp hành 02 năm cải tạo không giam giữ.

Giao bị cáo Nguyễn Văn H cho UBND thị trấn E, huyện E, tỉnh Đăk Lăk và giao bị cáo Trần Văn T2 cho UBND xã E, huyện M, tỉnh Đăk Lăk để giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T1 08 (Tám) tháng tù. Áp dụng Điều 56 và khoản 5 Điều 65 BLHS để tổng hợp hình phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Đánh bạc” theo Bản án số 37/2019/HSST ngày 22/7/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 Bản án là 03 (Ba) năm 02 (Hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/10/2018 đến ngày 14/12/2018.

[3]. Về án phí hình sự phúc thẩm:

- Các bị cáo Hà Văn T, Nguyễn Văn T1, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

- Bị cáo Nguyễn Văn H, Trần Văn T2 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 249/2020/HS-PT ngày 18/09/2020 về tội đánh bạc và gá bạc

Số hiệu:249/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;