Bản án 249/2019/HSST ngày 31/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 249/2019/HSST NGÀY 31/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 5 năm 2019, tại Hội trường, Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tiến hành xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 253/2019/HSST, ngày 31 tháng 01 năm 2019, đối với bị cáo:

- Họ và tên: Trương Công M; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 09/9/1989;

- Nơi cư trú: Xóm X, xã V, huyện P, tỉnh Thái Nguyên.

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Văn hóa: lớp 09/12; Con ông: Trương Văn T, sinh năm 1970; Con bà: Dương Thị Đ, sinh năm 1970; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình; Vợ là Lâm Thị K, sinh năm 1997; Chưa có con.

- Tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/02/2019 đến nay). (Có mặt tại phiên tòa)

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Ông Trịnh Thanh S, sinh năm 1962; (Có mặt tại phiên tòa)

Địa chỉ: Xóm C, xã M, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

Người làm chứng:

Anh Dương Văn K, sinh năm 1978; (Có mặt tại phiên tòa);

Đa chỉ: Xóm T, xã V, huyện P, tỉnh Thái Nguyên.

Người chứng kiến:

Anh Nguyễn Đức M, sinh năm 1960.(vắng mặt tại phiên tòa);

Nơi cư trú: Tổ X, phường Q, thành phố Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 15 giờ 30 phút ngày 27/02/2019, tổ công tác của Công an phường Quang Trung đang làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại tổ X, phường Q, thành phố Thái Nguyên thì phát hiện 01 nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, nam thanh niên khai họ tên: Trương Công M và tự giác giao nộp từ tay trái của M ra 01 gói nhỏ màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng (theo M khai là Heroine). Tổ công tác tiến hành lập biên bản, thu giữ vật chứng theo quy định.

Tiến hành mở niêm phong, cân xác định: số ma túy thu giữ của M có khối lượng 0,155 gam.

Tại kết luận giám định số 485/KL-PC09 ngày 07/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Trương Công M là chất ma túy loại Heroine, có khối lượng 0,155 gam.

Tại cơ quan điều tra, Trương Công M khai nhận: Khoảng 15 giờ ngày 27/02/2019, M điều khiển xe mô tô BKS-20FA-0606 từ nhà đến khu vực chợ Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên để tìm mua Heroine mục đích sử dụng cho bản thân. Tại đây, M gặp và mua của 01 người đàn ông không rõ lai lịch 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng. Mua xong M đi vào nhà vệ sinh của chợ Đồng Quang để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường Quang Trung bắt quả tang thu giữ vật chứng như trên.

Vật chứng của vụ án là:

- 01 bì niêm phong ký hiệu M1. Hiện được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA BKS 20FA-0606, hiện đã được trả lại cho chủ sở hữu là anh Trịnh Thanh Sơn quản lý, sử dụng.

Tại bản cáo trạng số 255/ CT-VKSTPTN, ngày 06/5/ 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố Trương Công M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 15 giờ ngày 27/02/2019, M điều khiển xe mô tô BKS-20FA-0606 (mượn của anh Dương Văn K) đi từ nhà đến khu vực chợ Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên để tìm mua Heroine mục đích sử dụng cho bản thân. Tại đây, M gặp và mua của 01 người đàn ông không rõ lai lịch 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng. Mua xong M đi vào nhà vệ sinh của chợ Đồng Quang để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường Quang Trung bắt quả tang thu giữ vật chứng như trên.

Tại phần tranh luận, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Trương Công M, đã công bố bản luận tội đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Trương Công M từ đến 18 đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/02/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy vật chứng: 01 bì niêm phong đúng quy định kí hiệu M1 (Bì niêm phong chứa chất ma túy). Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ–UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST nộp ngân sách nhà nước.

Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận thừa nhận việc truy tố, xét xử là không oan.

Bị cáo nói lời sau cùng xin hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

- Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

- Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo xác định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố là đúng người, đúng tội. Xét thấy lời nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong vật chứng, biên bản cân xác định trọng lượng, Kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến và những chứng cứ, tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 27/02/2019, tại khu vực tổ X, phường Q, thành phố Thai Nguyên, Trương Công M đang có hành vi tàng trữ 0,155 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Quang Trung, thành phố Thái Nguyên phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng.

Như vậy, hành vi của bị cáo Trương Công M đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hành vi phạm tội của bị cáo Trương Công M vi phạm quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy ... thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam…

Do vậy bị cáo phải chịu hình phạt mà điều luật đã quy định.

- Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền về ma túy của nhà nước, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự của địa phương, ảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế của bản thân bị cáo. Ngoài ra, hành vi của bị cáo còn là nguyên nhân dẫn đến căn bệnh thế kỷ HIV-AIDS, đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác. Nên cần có hình phạt tương xứng với tội trạng của bị cáo gây ra để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy: Bị cáo Trương Công M là người chưa có tiền án, tiền sự. Vì vậy, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xét về nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu, nghiện ma túy nhưng không chịu cai nghiện để trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội chứng tỏ bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật kém.

Căn cứ vào tính chất, mức độ tội phạm do bị cáo thực hiện, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo là người nghiện ma túy, tuy nhiên đã không chịu cai nghiện, không chịu lao động, không chịu rèn luyện, ý thức chấp hành pháp luật kém. Vì vậy, cần có một mức án nghiêm khắc để giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Bị cáo phạm tội không nhằm mục đích thu lời bất chính và qua xác minh thấy rằng bị cáo không có tài sản riêng gì có giá trị do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý các vật chứng sau:

Đi với vật chứng là 01 bì niêm phong kí hiệu M1 (Bì niêm phong chứa chất ma túy), do đó cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với vật chứng là 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA BKS 20FA-0606, hiện đã được trả lại cho chủ sở hữu là anh Trịnh Thanh S quản lý, sử dụng nên cần ghi nhận.

- Về những vấn đề khác:

Áp dụng Điều 329 Bộ luật TTHS năm 2015 tiếp tục tạm giam bị cáo Trương Công M thời hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành án.

Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp sung quỹ Nhà nước, theo quy định của pháp luật.

Thông báo cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định.

Trong vụ án này có người bán ma túy cho bị cáo M nhưng không xác định được nhân thân lai lịch nên không xem xét xử lý.

Bởi các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Áp dụng: Điểm c khoản1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luât hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Trương Công M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy"

Về hình phạt:

Xử phạt: Trương Công M 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/02/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Áp dụng: Điều 329 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Quyết định tạm giam bị cáo Trương Công M 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong kí hiệu M1 (Bên trong có chứa ma túy). (biên bản giao nhận vật chứng số 284 ngày 04/5/2019).

Ghi nhận việc anh Trịnh Thanh S đã nhận lại tài sản là 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA BKS 20FA-0606.

Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ –UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST sung quỹ Nhà nước.

Quyền kháng cáoBị cáo Trương Công M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 249/2019/HSST ngày 31/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:249/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;