Bản án 247/2019/HNGĐ-ST ngày 03/06/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 247/2019/HNGĐ-ST NGÀY 03/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Trong ngày 03 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 58/2019/TLST.HNGĐ, ngày 12 tháng 02 năm 2019 về việc Tranh chấp ly hôn. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2019/QĐST-HNGĐ ngày 17/4/2019 giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: Bà Trần Thị Thanh S, sinh năm 1971 nơi cư trú: ấp MB, xã TMT, huyện CP, tỉnh An Giang. Có mặt

-Bị đơn: Ông Trần Văn L, sinh năm 1970 nơi cư trú: ấp MB, xã TMT, huyện CP, tỉnh An Giang. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 09 tháng 01 năm 2019 và L khai của nguyên đơn bà Trần Thị Thanh Sơn trình bày: Bà và ông L kết hôn vào ngày 19/7/1990 nhưng không có đăng ký kết hôn, chỉ tổ chức lễ cưới. Sau khi kết hôn, ông bà chung sống với nhau một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do ông L không có trách nhiệm với gia đình, nhậu nhẹt bê tha, cờ bạc và có quan hệ tình cảm bên ngoài. Bà đã yêu cầu ly hôn 02 lần nhưng vì tình cảm vợ chồng và nghĩ cho con nên bà đã tha thứ và cho ông cơ hội để thay đổi. Tuy nhiên cho đến nay ông vẫn không sửa đổi, ông tiếp tục quan hệ tình cảm bên ngoài, không chăm lo gia đình hay phụ tiếp kinh tế mà còn mắng chửi bà, hiện ông bà đã ly thân, tình cảm không còn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông L.

Bà và ông L có 01 con chung tên Trần Thị Thanh V, sinh ngày 07/10/1993 đã trưởng thành nên không yêu cầu nuôi con hay cấp dưỡng.

Bà và ông L có tài sản chung nhưng yêu cầu giải quyết, không có nợ chung.

Tờ tường trình ngày 06 tháng 3 năm 2019 và lời khai của bị đơn ông Trần Văn L trình bày: Ông không đồng ý ly hôn với bà S, những gì bà S trình bày là không đúng sự thật. Sự việc mâu thuẫn giữa vợ chồng gần đây là do bà S hiểu lầm, tiền vay hay tiền hụi là ông để nuôi mẹ bệnh và lo đám tang cho mẹ, không có sử dụng riêng tư gì. Ông thật sự đã thay đổi, không có làm gì có lỗi với vợ con, vẫn làm tròn trách nhiệm với gia đình.

Ông và bà Sơn có 01 con chung tên Trần Thị Thanh V, sinh ngày 07/10/1993, nay đã trưởng thành.

Ông và bà S có tài sản chung nhưng không yêu cầu giải quyết; nợ chung không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Ông L là bị đơn, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng không có mặt. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông L theo quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung giải quyết vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Bà S và ông L chung sống vào năm 1990 nhưng chỉ tổ chức lễ cưới mà không đăng ký kết hôn. Bà S và ông L tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng và có đủ điều kiện đăng ký kết hôn nhưng ông bà không đăng ký là vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Do bà S và ông L không có đăng ký kết hôn, căn cứ vào khoản 1 Điều 14; khoản 2 Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử không công nhận quan hệ giữa bà S và ông L là vợ chồng

[2.2] Về con chung: Ông bà có 01 con chung tên Trần Thị Thanh V, sinh ngày 07/10/1993, hiện đã trưởng thành và lao động nên không đặt ra vấn đề nuôi dưỡng và cấp dưỡng nuôi con.

[2.3] Về tài sản chung: không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.4] Về nợ chung: Không có

[2.5] Về án phí: Bà S phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 91, Điều 147, Điều 266, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 14, Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/PL-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Thanh S.

Không công nhận quan hệ giữa ông Trần Văn L và bà Trần Thị Thanh S là vợ chồng Bà S và ông L có 01 (một) con chung tên Trần Thị Thanh V, sinh ngày 07/10/1993, hiện đã trưởng thành và lao động được.

Bà S và ông L không yêu cầu giải quyết tài sản chung. Bà S và ông L có quyền khởi kiện chia tài sản chung sau khi ly hôn bằng một vụ án khác nếu có yêu cầu.

Bà S và ông L thống nhất không có nợ chung.

Bà S phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0010289 ngày 12/02/2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Phú.

Bà S được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông L được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 247/2019/HNGĐ-ST ngày 03/06/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:247/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;