Bản án 246/2021/HS-ST ngày 28/09/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 246/2021/HS-ST NGÀY 28/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 28 tháng 9 năm 2021 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 221/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 217/2021/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2021, đối với bị cáo:

Lê Văn Đ, sinh năm 1989 tại tỉnh An Giang; thường trú: Ấp K Qu 1, xã K Th, huyện Ch M, tỉnh An Giang; chỗ ở: Số NC, đường N8, khu phố Đ A, phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Hòa Hảo; con ông Lê Văn B, sinh năm 1968 và bà Lê Thị Ng, sinh năm 1966; bị cáo có vợ tên là Thị Ng, sinh năm 1995, có 02 con ruột, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2020; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 09/11/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố D A, tỉnh Bình Dương xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 375/2019/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/11/2020, đóng án phí ngày 20/12/2019; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ 07/5/2021 cho đến nay; có mặt.

- Bị hại: Anh Lê Văn Tr, sinh ngày 04/3/2002; địa chỉ: Ấp Qu L, xã Th M, huyện V Th, thành phố C Th; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Ngô Tấn B, sinh năm 1971; thường trú: Khu vực M, phường H Th, thành phố Ng B, tỉnh Hậu Giang; vắng mặt.

2. Ông Lê Công Th, sinh năm 1971; thường trú: Khu phố B, phường Kh B, thị xã T U, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

3. Bà Lê Thị Thu H, sinh năm 1973; thường trú: Ấp Qu L, xã Th M, huyện V Th, thành phố Cần Thơ; vắng mặt.

*Người tham gia tố tụng khác:

- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Minh Th; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 05/5/2021, Lê Văn Đ đến phòng trọ của tên L (chưa rõ nhân thân, lai lịch) tại địa chỉ số 613/29 đường M Ph – T V, khu phố Đ Th, phường T Đ H, thành phố Di A, tỉnh Bình Dương để chơi. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, Đ đi về, lúc này Đ nhìn thấy 01 xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, số loại Satria màu sơn đen (chưa gắn biển số) của ông Lê Văn Tr dựng trước dãy phòng trọ cạnh phòng trọ của L. Do không có tiền tiêu xài và phương tiện đi lại, lợi dụng không có người trông coi Đ tiến lại vị trí xe và nhìn thấy chìa khóa xe treo trên cổ xe, Đ lấy chìa khóa cắm vào ổ khóa rồi quay đầu xe dắt xe ra ngoài dãy trọ và nổ máy chạy đi. Sau đó, Đ lấy 01 biển số 83C1-620.06 gắn vào chiếc xe vừa trộm rồi điều khiển xe mô tô về phòng trọ của Nguyễn Minh Th tại địa chỉ số 33/14, khu phố B, phường A B, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai.

Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, ông Tr phát hiện xe bị mất trộm chiếc xe nêu trên nên đến Công an phường T Đ H trình báo, Công an phường T Đ H lập hồ sơ cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Di A, tỉnh Bình Dương. Đến ngày 07/5/2021,Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A đã bắt được Đ. Tiến hành khám xét khẩn cấp phòng trọ tại địa chỉ số 33/14, khu phố B, phường A B, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai, lực lượng Công an phát hiện thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, số loại Satria màu sơn đen, số khung MH8DL11AZKJ189236, số máy CGA1-ID189061, biển số 83C1-620.06; 01 xe mô tô kiểu dáng Wave, màu xanh đen, biển số 61U1-9503, số máy VYT29JL1B52FM, số khung RRKWCH1UM8XN31241.

Theo Kết luận định giá tài sản số: 64/KLĐG-HĐĐGTS ngày 14/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, kết luận như sau: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, số loại Satria màu sơn đen, số khung MH8DL11AZKJ189236, số máy CGA1-ID189061, chưa có biển số (sử dụng tháng 7/2019), có trị giá 33.000.000 đồng.

Quá trình điều tra và trong đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận định giá tài sản số: 64/KLĐG-HĐĐGTS ngày 14/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Tại cáo trạng số: 243/CT – VKS - DA ngày 09 tháng 7 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lê Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Văn Đ với mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

* Về xử lý vật chứng:

- Đối với biển số xe 83C-620.06 thu giữ trong vụ án, quá trình điều tra xác định được biển số này là của xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner màu đỏ – đen - bạc do ông Ngô Thanh B đứng tên đăng ký chủ sở hữu, ông B khai nhận đã chuyển đổi biển số xe thành biển số 95E1-826.49 và ông B đang sử dụng xe này, do đó ông Bình không yêu cầu gì đối với biển số trên, đồng thời biển số trên là tang vật của vụ án, không còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- Đối với biển số 61U1-95.03 thu giữ trong vụ án, quá trình điều tra xác định là biển số xe không rõ nhãn hiệu màu đen – xám, số máy 023913, số khung 023913 do ông Lê Công Th đăng ký đứng tên chủ sở hữu. Ông Th khai nhận năm 2010, ông Th đã bán xe này cho một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch), do đó ông Th không yêu cầu gì đối với biển số trên, đồng thời biển số trên là tang vật của vụ án, không còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) xe mô tô kiểu dáng Wave màu xanh - đen, số máy VYT29JL1B52FM, số khung RRKWCH1UM8XN31241 thu giữ trong vụ án, quá trình điều tra xác định xe này là của ông Nguyễn Phi H đứng tên đăng ký chủ sở hữu, qua xác minh ông H không có mặt tại địa phương. Lê Văn Đ khai nhận đã mua xe này của một người tên B (không rõ nhân thân, lai lịch) vào cuối tháng 4/2021 để làm phương tiện đi lại và gửi tại phòng trọ của Nguyễn Minh Th, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Lê Văn Tr đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt là 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, số loại Satria màu sơn đen, số khung MH8DL11AZKJ189236, số máy CGA1-ID189061, trong quá trình điều tra và trong đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt bị hại Tr không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét.

Do bị cáo có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên không có lời nói sau cùng, tuy nhiên trong quá trình điều tra và đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của của mình như Cáo trạng đã truy tố đồng thời bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và trong đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đối với bị cáo Lê Văn Đ và bị hại Lê Văn Tr có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 290 và Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị cáo và các bị hại là đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Bản thân Hà Đình N có 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích. Khoảng 16 giờ ngày 05/5/2021, tại dãy trọ số 613/29 đường M Ph - T V, khu phố Đ Th, phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Lê Văn Đ có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, số loại Satria màu sơn đen, số khung MH8DL11AZKJ189236, số máy CGA1- ID189061, chưa có biển số của ông Lê Văn Tr, có trị giá 33.000.000 đồng.

Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại có trị giá 33.000.000 đông, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số: 243/CT – VKS - DA ngày 09 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện tuy ít nghiêm trọng nhưng đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo đủ để giáo dục cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội mới nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như trong đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu thể hiện bị cáo là người có tiền án chưa được xóa nhưng không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[7] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, bị cáo có tiền án chưa được xóa án tích, hành vi phạm tội của bị cáo ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Đối với biển số xe 83C-620.06 thu giữ trong vụ án, quá trình điều tra xác định được biển số này là của xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner màu đỏ-đen-bạc do ông Ngô Thanh B đứng tên đăng ký chủ sở hữu, ông B khai nhận đã chuyển đổi biển số xe thành biển số 95E1-826.49 và ông B đang sử dụng xe này, do đó ông Bình không yêu cầu gì đối với biển số trên, đồng thời biển số trên là tang vật của vụ án, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với biển số 61U1-95.03 thu giữ trong vụ án, quá trình điều tra xác định là biển số xe không rõ nhãn hiệu màu đen – xám, số máy 023913, số khung 023913 do ông Lê Công Th đăng ký đứng tên chủ sở hữu. Ông Th khai nhận năm 2010, ông Th đã bán xe này cho một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch), do đó ông Th không yêu cầu gì đối với biển số trên, đồng thời biển số trên là tang vật của vụ án, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) xe mô tô kiểu dáng Wave màu xanh – đen, số máy VYT29JL1B52FM, số khung RRKWCH1UM8XN31241 thu giữ trong vụ án, quá trình điều tra xác định xe này là của ông Nguyễn Phi H đứng tên đăng ký chủ sở hữu, qua xác minh ông H không có mặt tại địa phương. Lê Văn Đ khai nhận đã mua xe này của một người tên B (không rõ nhân thân, lai lịch) vào cuối tháng 4/2021 để làm phương tiện đi lại và gửi tại phòng trọ của Nguyễn Minh Th, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau, là đúng quy định của pháp luật.

[9] Về trách nhiệm dân sự:

- Bị hại Lê Văn Tr đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt là 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, số loại Satria màu sơn đen, số khung MH8DL11AZKJ189236, số máy CGA1- ID189061, trong quá trình điều tra và trong đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt bị hại Tr không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[11] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đưa ra đối với bị cáo về tội danh, mức hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, về xử lý vật chúng và trách nhiệm dân sự là phù hợp nên có cơ sở chấp nhận.

[12] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Lê Văn Đ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/5/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) biển số xe 83C-620.06 và 01 (một) biển số xe 61U1- 9503.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 09/7/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Lê Văn Đ phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 246/2021/HS-ST ngày 28/09/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:246/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;