Bản án 245/2018/HNGĐ-ST ngày 16/10/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 245/2018/HNGĐ-ST NGÀY 16/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 16 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1031/2018/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 9 năm 2018 về tranh chấp “Ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 303/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Minh T, sinh năm: 1983. (có mặt)

Địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm: 1980. (có mặt)

Địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn ngày 10 tháng 9 năm 2018 và những lời khai tiếp theo của chị Nguyễn Thị Minh T trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn H có tìm hiểu nhau thời gian 03 năm, sau đó chung sống vào năm 2007 và đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện L, tỉnh Bình Thuận vào ngày 14 tháng 5 năm 2007, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến tháng 02 năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do cuộc sống không phù hợp, đồng thời anh H đam mê cờ bạc, thường xuyên cãi vả nhau, nên chị và anh H sống ly thân từ tháng 6 năm 2018 cho đến nay.

Trước tòa chị xét thấy tình cảm không còn, nếu chung sống với nhau mục đích hôn nhân không đạt được nên chị quyết định xin ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

Về con chung: Chị và anh H có 02 con chung tên Nguyễn Minh Q sinh ngày 16 tháng 8 năm 2008 và Nguyễn Minh H, sinh ngày 28 tháng 10 năm 2009, hiện nay chị đang nuôi con, khi ly hôn chị xin được tiếp tục nuôi hai con chung, chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Tại lời trình bày của anh Nguyễn Văn H, anh xác định điều kiện kết hôn, thời gian chung sống và thời gian phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân xa nhau là đúng. Anh và chị T xa nhau từ tháng 6 năm 2018 cho đến nay. Nay chị T xin ly hôn anh không đồng ý.

Về con chung: Anh và chị T chung sống có 02 con chung tên Nguyễn Minh Q, sinh ngày 16 tháng 8 năm 2008 và Nguyễn Minh H, sinh ngày 28 tháng 10 năm 2009, hiện nay chị T đang nuôi con, khi ly hôn anh yêu cầu được nuôi hai con chung, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: không có.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải, tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nhưng các bên không thỏa thuận được với nhau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Minh T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn H; anh Nguyễn Văn H có hộ khẩu thường trú tại ấp A, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An và hiện đang có mặt tại địa phương nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Minh T và anh Nguyễn Văn H có tìm hiểu nhau thời gian 03 năm, sau đó chung sống vào năm 2007 có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện L, tỉnh Bình Thuận số 42 quyển 01/2007 vào ngày 14 tháng 5 năm 2007. Do đó, hôn nhân của hai anh chị được xem là hôn nhân hợp pháp theo Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3]. Trước tòa chị T xin ly hôn với anh H; chị T cho rằng cuộc sống anh chị không phù hợp, đồng thời anh H đam mê cờ bạc, thường xuyên cãi nhau, nên chị và anh H sống ly thân từ tháng 6 năm 2018 cho đến nay. Đối với anh H, tại biên bản hòa giải anh H đồng ý ly hôn, tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay anh không đồng ý ly hôn, đồng thời anh thừa nhận trước đây anh có đam mê cờ bạc, nhưng hiện nay anh không còn cờ bạc nữa, mặt khác từ khi ly thân đến nay anh H cũng không đưa ra biện pháp nào để hàn gắn, đoàn tụ, chị T cũng không đồng ý quay về sống chung với anh H.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng tình cảm vợ chồng giữa chị T và anh H không thể hàn gắn, đoàn tụ, đời sống chung không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, xét yêu cầu ly hôn của chị T đối với anh H là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về con chung: Chị T và anh H chung sống có 02 con chung tên Nguyễn Minh Q, sinh ngày 16 tháng 8 năm 2008 và Nguyễn Minh H, sinh ngày 28 tháng 10 năm 2009, hiện nay chị T đang nuôi con. Tại phiên tòa hôm nay chị T xin được tiếp tục nuôi hai con chung. Đối với anh H cũng xin được nuôi hai con chung. Thấy rằng, hai cháu Minh Q và Minh H là con chung của chị T và anh H, từ khi chị T và anh H xa nhau chị T là người trực tiếp nuôi con chu đáo, cho con đi học, việc này được anh H thừa nhận, hơn nữa tại bản tự khai của hai cháu Minh Q và Minh H có nguyện vọng muốn sống với chị T, nên việc yêu cầu xin được nuôi con của anh H không được chấp nhận và để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển bình thường của hai cháu Minh Q và Minh H, nên Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục giao cháu Minh Q, Minh H cho chị T nuôi là phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

[5]. Về cấp dưỡng: Tại phiên tòa hôm nay chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về tài sản chung: Chị T và anh H khai không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết là phù hợp.

[7]. Về nợ chung: Chị T và anh H cho rằng không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8]. Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc  hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 9, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Minh T đối với anh Nguyễn Văn H về việc “Ly hôn và nuôi con chung”.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Minh T được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

2. Về con chung: Chị T được tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Minh Q sinh ngày 16 tháng 8 năm 2008 và Nguyễn Minh H sinh ngày 28 tháng 10 năm 2009 (chị T đang nuôi).

3. Về cấp dưỡng: Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con vì chị T không yêu cầu.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, bên trực tiếp nuôi con không được quyền ngăn cản. Khi cần thiết có thể yêu cầu thay đổi quyền nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Minh T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0003264 ngày 10/9/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An sang án phí để thi hành. Chị T không phải nộp tiếp.

Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, các bên đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, để xin xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự,  thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 245/2018/HNGĐ-ST ngày 16/10/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:245/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;