Bản án 244/2019/HSST ngày 20/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN H, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 244/2019/HSST NGÀY 20/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 254/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 254/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2019 đối với:

* Bị cáo: Trần Văn M. Sinh năm: 1962. Giới tính: Nam. Tên gọi khác: Không. HKTT: Số 43, ngõ 113 P, phường E, quận H, Hà Nội. Chỗ ở: Số 23/95/53 P, phường E, quận H, Hà Nội. Nghề nghiệp: Tự do. Học vấn: 7/10. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Họ và tên cha: Hà Văn T (đã chết). Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Nh (đã chết). Gia đình có 07 chị em, bị cáo là con thứ 4. Họ và tên vợ: Hà M C, Sinh năm: 1968. Có 02 con, lớn sinh năm 1989, nhỏ sinh năm 1991.

Nhân thân: 02 tiền sự - Từ năm 1982 đến năm 2006 có 02 tiền sự về hành vi Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và đưa vào cơ sở bắt buộc chữa bệnh (ngoài thời hiệu).

Tạm giữ: 27/6/2019 Tạm giam: 06/7/2019 Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Phạm Quý V. Sinh năm: 1972; Nơi cư trú: Số 18 phố V, phường Q, TP. Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. (Anh V vắng mặt tại phiên tòa).

2. Anh Nguyễn Văn L. Sinh năm: 1971; Nơi cư trú: Số 6 ngõ 178 ngách 80/16 A, phường B, quận Đ, Hà Nội. (Anh L vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 26/6/2019, tại trước cửa số nhà 46 AB, phường E, quận H, Hà Nội, tổ công tác công an phường E phát hiện Nguyễn Văn L (Sinh năm: 1971; Nơi cư trú: Số 6 ngõ 178 ngách 80/16 A, phường B, quận Đ, Hà Nội) điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu xanh, BKS 29E2 - 01432 đi từ phía đền XX ra có biểu hiện nghi vấn nên kiểm tra và phát hiện tại hốc để đồ phía trước xe máy của L có 01 gói giấy màu trắng kích thước 0,5x1cm bên trong chứa chất bột màu trắng, L khai nhận là ma túy Heroine mua của Trần Văn M với giá 100.000 đồng để sử dụng (BL 47, 89). Đến 17 giờ 15 phút cùng ngày, dẫn giải L xác định nơi đã mua ma túy, L chỉ đúng nhà của M. Thời điểm dẫn giải, gia đình M khóa cửa (BL 59).

Thu giữ của L 01 gói giấy màu trắng kích thước 1x0,5cm, bên trong chứa chất bột màu trắng là ma túy Heroine; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu xanh, BKS 29 E2 - 01432, số khung: 412460, số máy: 0298188; 01 điện thoại Nokia 1280 màu đen, sim số 0368262887. Tất cả đã qua sử dụng (BL 49).

Khoảng 07 giờ 00 ngày 27/6/2019, tổ công tác Công an phường E tiếp tục làm nhiệm vụ, khi đến trước cửa số nhà 46 AB, phát hiện Phạm Quý V (Sinh năm:

1972; Nơi cư trú: 18 V, phường Q, TP. Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên) đi bộ từ phía đền XX ra có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, V tự nguyện giao nộp 01 gói ni lông màu đen kích thước 0,5x1 cm bên trong chứa chất bột màu trắng. Tại chỗ, V khai nhận là ma túy Heroine vừa mua của người đàn ông tên M nhà ở ngõ 53 P, phường E với giá 100.000 đồng để sử dụng.

Đến 11 giờ 00 cùng ngày, tổ công tác dẫn giải V đi chỉ đối tượng bán ma túy. Khi đến số nhà 23/95/53 P, phường E, quận H, Hà Nội, V nhận ra Trần Văn M là người đã bán ma túy cho mình. Tổ công tác tiến hành kiểm tra phát hiện trong túi quần đùi phía trước M đang mặc có 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 01 gói giấy màu trắng chứa chất bột màu trắng được giấu trong đầu lọc điếu thuốc lá. Tại chỗ, M khai nhận chất bột màu trắng bên trong gói giấy màu trắng là ma túy loại Heroine nhằm mục đích sử dụng. Tổ công tác đưa M cùng tang vật về trụ sở Công an phường E để giải quyết (BL 24, 25).

Ngoài ra, thu giữ của M 500.000 Việt Nam đồng, bao gồm: 03 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng, 04 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng, 07 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng (BL 29).

Khám xét khẩn cấp nơi ở của M, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận H thu giữ trên miệng ấm pha trà bằng sứ tại tủ gỗ cạnh cửa ra vào tầng 1 có 01 túi ni lông màu trắng kích thước 9x6cm bên trong có 09 gói giấy đều chứa chất bột màu trắng (BL 37).

Tổ chức nhận dạng, L và V đều nhận ra người bán ma túy cho mình là Trần Văn M nhưng cả hai từ chối đối chất (BL 146, 147, 148, 149, 150, 151).

Tại bản kết luận giám định số 4196, 4188 và 4189/KLGĐ-PC09 cùng ngày 03/7/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy màu trắng thu giữ trong túi quần Trần Văn M đang mặc là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,057 gam; Chất bột màu trắng bên trong 09 gói giấy màu trắng thu giữ trên miệng ấm pha trà bằng sứ tại tủ gỗ cạnh cửa ra vào tầng 1 nhà M khi khám xét đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 0,487 gam (BL 179).

- Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn L là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,036 gam (BL 181).

- Chất bột màu trắng bên trong 01 gói ni lông màu đen thu giữ của Phạm Quý V là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,033 gam (BL 180).

Tại Cơ quan điều tra, Trần Văn M khai: Do nghiện ma túy nên khoảng 08 giờ 00 phút ngày 27/6/2019, M đi bộ ra khu vực đê HH, P, quận H, Hà Nội mua 700.000 đồng tiền ma túy Heroine của một nam thanh niên không quen biết (không xác định được lai lịch) mang về chia nhỏ vào 10 gói giấy màu trắng nhằm mục đích để sử dụng. Chia ma túy xong, M giấu 01 gói giấy màu trắng chứa ma túy vào đầu lọc điếu thuốc lá rồi cho vào vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng để trong túi quần đang mặc để tiện sử dụng, số còn lại cất trên miệng ấm pha trà bằng sứ trong tủ gỗ cạnh cửa ra vào. Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 27/6/2019, M đang đứng ở trước cửa nhà mình thì bị lực lượng công an kiểm tra bắt giữ như nêu trên. M khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và khai không biết ai, không bán ma túy cho ai có tên là Nguyễn Văn L và Phạm Quý V có lý lịch như nêu trên. Số tiền 500.000 đồng là do Hà Thùy D (Sinh năm: 1991; HKTT: 43 ngõ 113 P, phường E, quận H, Hà Nội; Chỗ ở: 46/17 M, phường VT, quận Y, Hà Nội) - con gái M cho. Ngày 25/6/2019, D cho M 2.000.000 đồng để mua thuốc cai nghiện, M không mua thuốc mà lấy 700.000 đồng mua ma túy, 800.000 đồng chi tiêu cá nhân, còn lại 500.000 đồng (chuyển theo hồ sơ vụ án) (BL từ số 193 đến 221).

Nguyễn Văn L khai: Do có nhu cầu sử dụng ma túy, khoảng 11 giờ 15 phút ngày 26/6/2019, L điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu xanh, BKS 29 E2 - 01432 đến nhà M ở ngõ 53 P (cạnh đền XX) để mua ma túy. Đến nơi, L thấy cửa xếp sắt màu xanh nhà M hơi hé. L gọi, M đi ra sát cửa, L đưa 100.000 đồng, M đưa lại cho L 01 gói giấy màu trắng bên trong chứa ma túy. L để gói ma túy vừa mua được vào hốc để đồ đằng trước xe máy rồi đi về. Khi đi đến trước cửa số nhà 46 AB thì bị kiểm tra và bắt giữ. L khai đã nhiều lần đến nhà M trực tiếp mua ma túy, lần gần nhất vào sáng ngày 25/6/2019 và trưa ngày 26/6/2019 (BL từ số 71 đến 90).

Phạm Quý V khai: Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 27/6/2019, Võ đi bộ đến nhà M để mua ma túy. Đến nơi, thấy cổng khép nên Võ tự mở đi vào. M đang ngồi ở cửa, V hỏi mua 01 gói ma túy, M đồng ý. Võ đưa cho M 100.000 đồng, M đưa cho Võ 01 gói ni lông màu đen bên trong chứa ma túy Heroine. Võ đã nhiều lần mua ma túy trực tiếp tại nhà của M. Những lần mua trước, ma túy được gói bằng giấy màu trắng, lần này, ma túy được gói bằng ni lông màu đen. Khi đưa gói ma túy, M dặn Võ ngậm vào trong miệng, nếu gặp vấn đề gì thì nuốt luôn vào bụng (BL từ số 130 đến 145).

Mặc dù Trần Văn M không khai nhận việc bán ma túy cho Nguyễn Văn L và Phạm Quý V mà chỉ thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng nhưng căn cứ vào lời khai của L, V và những chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ như biên bản nhận dạng, biên bản dẫn giải, biên bản sự việc, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng… đủ cơ sở kết luận Trần Văn M đã có hành vi bán trái phép chất ma túy 02 lần.

Đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn L và Phạm Quý V do khối lượng Heroine dưới 0,1 gam, nhân thân đối tượng L không có tiền án, tiền sự về ma túy; đối tượng V có một tiền án về tội mua bán trái phép chất ma túy đã được xóa án tích nên không đủ căn cứ để xử lý hình sự. Ngày 30/7/2019, Cơ quan Công an quận H ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với L và V về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 21 Nghị định số 167/2013/NĐ- CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu xanh, BKS 29 E2 - 01432, số khung: 412460, số máy: 0298188 qua điều tra, xác M xác định chủ sở hữu là Nguyễn Văn L, không liên quan đến vụ án, không phải là xe tang vật của vụ án. Ngày 30 tháng 7 năm 2019, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận H đã trao trả xe máy và 01 điện thoại Nokia 1280 màu đen, sim số 0368262887 (tất cả đã qua sử dụng) cho Nguyễn Văn L. L nhận lại tài sản và không có ý kiến gì.

Về đối tượng bán ma túy cho Trần Văn M, do M khai không biết tên tuổi, địa chỉ, Cơ quan cảnh sát điều tra dẫn giải M chỉ nơi mua ma túy nhưng không xác định được đối tượng bán ma túy nên không có điều kiện xác M làm rõ để xử lý. Tại bản cáo trạng số 239/CT-VKS ngày 25 tháng 10 năm 2019 đã truy tố Trần Văn M tội “Tàng trữ, Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249, điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ Luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo khai nhận như khai tại Cơ quan điều tra, công nhận việc truy tố bị cáo về Tội Mua bán, Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận H giữ quyền công tố sau khi phân tích tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo bản cáo trạng đã ban hành, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Văn M phạm tội “Tàng trữ, Mua bán trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, xử phạt bị cáo với mức án từ 15 đến 18 tháng tù, áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, của Bộ Luật Hình sự, xử phạt bị cáo với mức án từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù, đề nghị tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chịu mức án từ 08 năm 09 tháng đến 09 năm 06 tháng tù. Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của bị cáo, của đương sự L, đương sự Võ, truy thu của bị cáo số tiền 200.000 đồng do bị cáo bán trái phép chất ma túy, trả lại cho bị cáo 500.000 đồng đã thu giữ nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng Nghị án, bị cáo được nói lời sau cùng, bị cáo trình bày bản thân nhận thức được hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là phạm tội, xin hứa không tái phạm, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tố tụng: Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Xét hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và hành vi mua bán trái phép chất ma túy:

[2.1]. Xét hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy: Lời khai của bị cáo phù hợp lời khai người làm chứng, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ.

[2.2]. Xét hành vi mua bán trái phép chất ma túy: Bị cáo nghiện ma túy nhiều năm, sử dụng ma túy phải dùng “cấy mà”, một ngày sử dụng nhiều lần, bị cáo không có nghề nghiệp, bị cáo khai chỉ dựa vào số tiền do con gái và gia đình cho để dùng mua ma túy là không có căn cứ để chấp nhận.

Thời điểm bị cáo bị bắt quả tang tàng trữ ma túy, bị cáo nại ra việc để ma túy trong đầu điếu thuốc Thăng Long đứng trước cửa nhà để tìm nơi sử dụng ma túy, trong khi đương sự L và đương sự V với bị cáo không có mâu thuẫn, đương sự L sau khi bị bắt quả tang đang tàng trữ ma túy đã chỉ được nhà bị cáo nhưng khi đó nhà bị cáo đóng cửa, ngay ngày hôm sau đương sự V sau khi bị bắt quả tang việc tàng trữ ma túy đã chỉ được bị cáo và nhà bị cáo là nơi đương sự V vừa mua ma túy. Ma túy mà đương sự V, đương sự L và bị cáo sử dụng đều là ma túy loại hê rô in.

[2.3]. Có đủ cơ sở kết luận: Trong 02 ngày 26 và 27/6/2019, tại số 23/95/53 P, phường E, quận H, Hà Nội, Trần Văn M đã có hành vi bán trái phép cho Nguyễn Văn L và Phạm Quý V tổng khối lượng 0,069 gam ma túy Heroine. Đến khoảng 11 giờ 00 phút ngày 27/6/2019, Trần Văn M có hành vi tàng trữ trái phép 10 gói giấy màu trắng chứa ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 0,544 gam thì bị bắt quả tang cùng tang vật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ hành vi “Tàng trữ, Mua bán trái phép chất ma túy” bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện.

[3] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo được hưởng tình tiết người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

[4] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi của bị cáo là tình tiết định khung hình phạt nên hành vi của bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về quyết định hình phạt: Hội đồng xét xử nhận thấy cần thiết áp dụng hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội bị các hành vi vi phạm pháp luật xâm hại, đảm bảo tính công bằng của pháp luật; cách ly người phạm tội với môi trường xã hội, phòng ngừa, ngăn chặn không để họ tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội; răn đe những người có ý định phạm tội góp phần vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo an ninh, trật tự của đất nước. Hơn nữa, bị cáo được giáo dục cải tạo, giúp bị cáo nhận thức rõ tội lỗi, hành vi vi phạm pháp luật, khắc phục, sửa chữa những thói quen, hành vi của bản thân không phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội; ăn năn, hối cải, tích cực lao động, học tập, cải tạo, xây dựng nhận thức, tình cảm đúng đắn, định hướng được các giá trị, chuẩn mực về đạo đức, lối sống của công dân để khi trở về địa phương, họ sẽ trở thành những công dân có ích cho xã hội.

[5.1] Thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 27/6/2019 đến ngày 19/11/2019 được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù theo quy định của pháp luật.

[6] Về hình phạt phụ bổ sung: Bị cáo nghề nghiệp không ổn định nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về Biện pháp tư pháp:

+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ.

+ Truy thu của bị cáo số tiền 200.000 đồng do bị cáo bán trái phép chất ma túy;

+ Trả lại cho bị cáo số tiền 500.000 đồng đã thu giữ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[9] Án phí hình sự: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: TRẦN VĂN M phạm Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy;

2. Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 47 của Bộ Luật Hình sự; Xử phạt: TRẦN VĂN M 15 (MƯỜI LĂM) tháng tù.

3.Tuyên bố: TRẦN VĂN M phạm Tội Mua bán trái phép chất ma túy;

4. Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 251, Điều 38, Điều 47 của Bộ Luật Hình sự; Xử phạt: TRẦN VĂN M 07 (BẨY) năm 03 (BA) tháng tù.

5. Áp dụng: khoản 1 Điều 55 của Bộ Luật Hình sự về tổng hợp hình phạt trong khi xét xử 1 lần một người phạm nhiều tội. Buộc bị cáo TRẦN VĂN M phải chấp hành 08 (TÁM) năm 06 (SÁU) tháng tù về Tội Tàng Trữ trái phép chất ma túy và Tội Mua bán trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/6/2019.

6. Áp dụng:

- Điều 106, 135, 136, 331, 333 của Bộ Luật tố tụng hình sự 2015;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội;

7. Biện pháp tư pháp:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong dán kín, bên ngoài có chữ ký niêm phong của đương sự Trần Văn M, người chứng kiến Lương Thị Hồng Giang, giám định viên Nguyễn Thị Thành, hình dấu Công an phường E. Bên trong có 01 gói giấy màu trắng đựng 0,057 gam ma túy hêrôin, PC09 trích mẫu 0,016 gam, còn lại 0,041 gam;

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong dán kín, bên ngoài có chữ ký niêm phong của đương sự Trần Văn M, người chứng kiến Lương Thị Hồng Giang, Hà Minh Châm, giám định viên Nguyễn Thị Thành, cán bộ Đình Công Cường và hình dấu Công an phường E. Bên trong có 01 túi ny lông đựng 09 gói giấy màu trắng chứa ma túy loại hê rô in có khối lượng ban đầu 0,487 gam, PC09 trích mẫu 0,027 gam, còn lại 0,460 gam;

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong dán kín, bên ngoài có chữ ký niêm phong của đương sự Nguyễn Văn L, giám định viên Nguyễn Thị Thành, cán bộ Nguyễn Hoàng Sơn và hình dấu Công an phường E. Bên trong có 01 gói giấy màu trắng chứa ma túy loại hê rô in có khối lượng ban đầu 0,036 gam, PC09 trích mẫu 0,011 gam, còn lại 0,025 gam;

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong dán kín, bên ngoài có chữ ký niêm phong của đương sự Phạm Quý V, giám định viên Nguyễn Thị Thành, người chứng kiến Đỗ Văn Như, cán bộ Lê Canh Linh và hình dấu Công an phường E. Bên trong có 01 gói ny lông màu đen chứa ma túy loại hê rô in có khối lượng ban đầu 0,033 gam, PC09 trích mẫu 0,012 gam, còn lại 0,021 gam;

Số vật chứng trên hiện giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận H - theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 30/10/2019;

+ Truy thu số tiền 200.000 (hai trăm nghìn) đồng của bị cáo do bị cáo bán trái phép chất ma túy;

+ Trả lại cho bị cáo số tiền 500.000 (năm trăm nghìn) đồng hiện đã được gửi giữ trong tài khoản số 3949.0.9053291.00000 tại Kho bạc nhà nước H theo Giấy nộp tiền ngày 24/7/2019, nhưng tạm giữ để thi hành án.

8. Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

9. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 244/2019/HSST ngày 20/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:244/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;