Bản án 244/2018/HNGĐ-ST ngày 20/11/2018 về xin ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 244/2018/HNGĐ-ST NGÀY 20/11/2018 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 20 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 872/2018/TLST-HNGĐ, ngày 03 tháng 10 năm 2018 về việc xin ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 786/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Kim Th (Tú), sinh năm: 1987 (có mặt). Địa chỉ cư trú: Ấp Xóm Chùa, xã Hòa Thành, Tp. C, tỉnh C.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Bé M, sinh năm: 1982 (vắng mặt). Địa chỉ cư trú: Ấp Xóm Chùa, xã Hòa Thành, Tp. C, tỉnh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn, quá trình hòa giải vụ án và tại phiên tòa, chị Bùi Thị Kim Th trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Bé M xác lập quan hệ hôn nhân và chung sống vợ chồng vào năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tân Thành, thành phố C, tỉnh C. Hôn nhân được xác lập trên tinh thần tự nguyện, có tổ chức hỏi cưới theo phong tục, tập quán và được gia đình hai bên chấp thuận.

Quá trình chung sống, chị Th cho rằng cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, nguyên nhân do anh M thường xuyên ăn nhậu, không biết quan tâm, chia sẻ, bảo vệ cuộc sống gia đình mà còn dùng lời lẽ sỉ vã, đánh đập, đuổi chị ra khỏi nhà. Từ đó, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên gây gổ, bất hòa, tình cảm phai nhạt. Do đó, chị xét thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh M.

- Về con chung: Chị Th xác định giữa chị và anh M có 01 con chung tên Nguyễn Vĩnh Ph, sinh ngày 26/6/2008. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi con, và yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ cho đến khi cháu Ph đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung: Chị Th xác định vợ, chồng chị có tài sản chung nhưng chị không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Chị Th khai giữa vợ, chồng chị không thiếu nợ ai và không ai nợ lại vợ, chồng chị.

* Tại biên bản hòa giải ngày 31/10/2018, anh M trình bày: Về thời gian kết hôn, nơi đăng ký kết hôn, thời gian chung sống, con chung, tình trạng tài sản chung, nợ chung đúng như chị Th trình bày. Về mâu thuẫn thì anh xác định do chị Th thường xuyên đi chơi nhưng không cho anh biết đi đâu, làm gì, anh gọi điện thoại thì chị Th chặn cuộc gọi. Vì vậy, trong lúc có rượu nóng giận nên anh có chửi và đuổi chị Th đi. Tuy nhiên, anh cho rằng vẫn còn thương vợ và cần có thêm thời gian để cảm thông, chia sẻ nhằm hàn gắn tình cảm vợ, chồng và nuôi dạy con cái nên anh không đồng ý ly hôn với chị Th. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn và giao con cho chị Th nuôi thì anh cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ; tài sản chung do anh, chị tự thỏa thuận; nợ chung không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Mặc dù anh M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa xét xử vụ án ly hôn nhưng anh M vẫn không có mặt, cũng không có ý kiến phản hồi hay đưa ra giải pháp gì để vợ, chồng đoàn tụ. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh M theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về loại việc tranh chấp và thẩm quyền của Tòa án: Tranh chấp giữa chị Th và anh M là tranh chấp về ly hôn nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Bùi Thị Kim Th và anh Nguyễn Bé M xác lập quan hệ vợ, chồng, có tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán, có đăng ký kết hôn vào năm 2007 và đủ điều kiện kết hôn theo luật định nên hôn nhân được chấp nhận là hợp pháp và được pháp luật công nhận, bảo vệ. Quá trình chung sống, do vợ, chồng có nhiều điểm bất đồng trong mối quan hệ tình cảm, không quan tâm, chăm sóc, cảm thông, chia sẻ lẫn nhau. Xét mâu thuẫn thực tế là có nhiều mâu thuẫn, nhận thấy về mục đích hôn nhân không đạt. Bởi lẽ, trong cuộc sống vợ chồng, anh, chị mỗi người đều có cách sống, công việc khác nhau, anh M thường xuyên đi nhậu, đánh đập, chửi bới, đuổi xô chị Th; còn chị Th thì đi đâu, làm gì không cho anh M biết, chặn cuộc gọi khi anh M gọi từ đó, giữa vợ, chồng đã nhiều lần cải vã, làm mất lòng tin đối với nhau, mỗi người có cuộc sống và mối quan hệ riêng tư, không quan tâm, giúp đở lẫn nhau. Mặt khác, sau khi xảy ra mâu thuẫn, anh, chị cũng tự dung hoà để hàn gắn tình cảm vợ, chồng nhưng không có hiệu quả. Thời gian xảy ra mâu thuẫn đến nay để cho anh, chị có điều kiện thử thách bản thân, suy ngẫm về cuộc sống vợ, chồng đã qua nhằm tìm cách tháo gỡ, khắc phục khuyết điểm của mỗi bên để vợ, chồng đoàn tụ nhưng không ai có biện pháp gì để khắc phục tình trạng mâu thuẫn và cũng không quan tâm, thăm hỏi, giúp đỡ lẫn nhau. Mặt khác, tự bản thân anh M cũng biết rõ là không thể chung sống với chị Th được nữa. Tuy nhiên, anh vẫn muốn kéo dài cuộc hôn nhân mà không có biện pháp gì cụ thể để vợ, chồng đoàn tụ. Bên cạnh đó, chị Th cương quyết ly hôn, nếu không được xem xét thì chị cũng không thể quay lại chung sống với anh M, vì tình cảm không còn và tương lai, hạnh phúc cũng không có. Hội đồng xét xử thấy rằng, tình cảm và cuộc sống vợ chồng muốn duy trì được cần phải có sự dung hoà, cảm thông, chia sẽ và xây đắp của cả hai bên chứ không phải sự ép buộc, níu kéo từ một phía; hơn nữa tình cảm vợ, chồng của chị Th và anh M đã rạng nức, không tìm được tiếng nói chung nên không thể hàn gắn được. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xem xét chấp nhận cho chị Th được ly hôn với anh M là có căn cứ.

[3] Về con chung: Chị Th và anh M xác định giữa chị và anh có 01 con chung tên Nguyễn Vĩnh Ph, sinh ngày 26/6/2008. Khi ly hôn, chị Th yêu cầu được nuôi con và yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ đến khi cháu Ph đủ 18 tuổi. Anh M xác định: Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn thì anh đồng ý giao con cho chị Th nuôi, anh tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ. Hội đồng xét xử xét thấy: Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình thì vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Do đó, cần chấp nhận sự tự nguyện thỏa thuận của anh M và chị Th cũng như nguyện vọng cháu Ph - giao cháu Nguyễn Vĩnh Ph cho chị Th tiếp tục nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp. Về khoản tiền cấp dưỡng nuôi con, chị Th yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ và được anh M chấp nhận nên Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện cấp dưỡng nuôi con của anh M mỗi tháng 1.000.000đ đối với cháu Ph là phù hợp.

[4] Về tài sản chung: Chị Th và anh M xác định giữa vợ, chồng anh, chị có tài sản chung nhưng anh, chị tự thỏa thuận nên không đặt ra xem xét.

[5] Về nợ chung: Chị Th và anh M khai rằng anh, chị không thiếu nợ ai và không ai nợ lại anh, chị nên không đề cập giải quyết.

[6] Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình:

Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, buộc anh M phải chịu theo quy định tại điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Bùi Thị Kim Th (Tú) về việc xinly hôn anh Nguyễn Bé M.

2. Về con chung: Chấp nhận sự tự nguyện thỏa thuận của chị Th và anh M - giao cháu Nguyễn Vĩnh Ph, sinh ngày 26/6/2008 cho chị Bùi Thị Kim Th trực tiếp nuôi dưỡng; chấp nhận sự tự nguyện cấp dưỡng nuôi con của anh M mỗi tháng 1.000.000đ đối với cháu Ph. Thời hạn cấp dưỡng từ khi bản án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu Ph đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Bé M được quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được cản trở.

Kể từ ngày chị Th có đơn yêu cầu thi hành án, nếu anh M không tự nguyện thi hành khoản tiền cấp dưỡng nuôi con thì hàng tháng phải chịu thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian và số tiền chậm thanh toán.

3. Về tài sản chung: Chị Th và anh M xác định có tài sản chung nhưng anh, chị không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

4. Về nợ chung: Chị Th và anh M khai không thiếu nợ ai và không ai nợ lại anh, chị nên không đề cập giải quyết.

5. Án phí dân sự sơ thẩm về Hôn nhân và gia đình, chị Th phải chịu 300.000đ. Ngày 02 tháng 10 năm 2018, chị Th đã nộp tạm ứng án phí 300.000đ theo biên lai số 1450 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau được đối trừ chuyển thu sung quỹ nhà nước. Án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, buộc anh M phải chịu 300.000đ khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Chị Th được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh M được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 244/2018/HNGĐ-ST ngày 20/11/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:244/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;