Bản án 242/2019/HSST ngày 12/11/2019 về tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 242/2019/HSST NGÀY 12/11/2019 VỀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Trong ngày 12 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế (60 Nguyễn Huệ, Huế) xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 223/2019/HSST ngày 18 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 227/2019/QĐXXST-HS ngày 29/10/2019 đối với bị cáo:

Hồ Văn N, tên gọi khác: Không; sinh ngày 27/9/1998 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; Nơi cư trú: Số nhà 08/01/5 kiệt 96 đường T, phường P, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông (không rõ); con bà Hồ Thị Đ, sinh năm 1971; vợ: Sống như vợ chồng với chị Lê Mỹ T (sinh năm 1992, trú tại 24 đường L, phường A, thành phố Huế); con: Có 01 con sinh năm 2013, sống với mẹ.

Quá trình nhân thân: Lúc nhỏ sống với cha mẹ, học văn hoá đến lớp 9/12 thì nghỉ học.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 13/7/2019, chuyển tạm giam ngày 19/7/2019 cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người chứng kiến:

Ông Lê Văn Đ, sinh năm 1965. Nơi cư trú: Tổ 6, khu vực 2, phường V, thành phố Huế, vắng mặt.

Anh Đoàn Lưu T, sinh năm 1980. Nơi cư trú: 47 đường L, phường V, thành phố Huế, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 40 phút ngày 13/7/2019, Hồ Văn N được một đối tượng tên Quang (tức Rôn, không rõ lai lịch) nhờ đến phía sau khu vực chợ Cống, phường Xuân Phú, thành phố Huế lấy ma túy, rồi đưa đến giao cho người khác ở đoạn ngã ba đường Phạm Văn Đồng- Điềm Phùng Thị. N thuê xe taxi đến khu vực chợ Cống, lấy số ma túy nói trên theo hướng dẫn của Quang (Rôn), giấu vào túi quần của mình, rồi đi đến ngã ba đường Phạm Văn Đồng- Điềm Phùng Thị đứng đợi để chờ người khác đến lấy. Khi Hồ Văn N đang đứng đợi thì bị Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong túi quần của N một gói ni lông màu trắng viền đỏ, bên trong có 10 viên nén hình trụ tròn màu xanh và 01 gói ni lông màu trắng, bên trong chứa chất tinh thể rắn màu trắng.

Vật chứng thu giữ:

- Một gói ni lông màu trắng viền đỏ, bên trong có 10 viên nén hình trụ tròn màu xanh và 01 gói ni lông màu trắng, bên trong chứa chất tinh thể rắn màu trắng. Tất cả được niêm phong kín bằng bì thư và băng keo, bên ngoài có 02 chữ ký Điều tra viên Trương Thanh Minh và 02 chữ ký Hồ Văn N, 02 dấu tròn đỏ của Công an phường V, thành phố Huế.

- 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone, vỏ màu hồng.

- 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, có số Imei 3541804492360.

Tại bản kết luận giám định số 355/GĐ ngày 16/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận: Mẫu tinh thể rắn màu trắng gửi giám định (nêu tại mục 1.1, phần II) có khối lượng là 0,8735g, là ma túy, loại Ketamine; 10 viên nén đều có dạng hình trụ màu xanh gửi giám định (nêu tại mục 1.2, phần II) tổng khối lượng là 3,4532g, là ma túy, loại MDMA; Hoàn lại đối tượng giám định là 0,6735g mẫu tinh thể rắn màu trắng (nêu tại mục 1.1, phần II); 2,9532g chất bột được nghiền từ 10 viên nén đều có dạng hình trụ màu xanh (nêu tại mục 1.2, phần II) cùng các vật liệu dùng để bao gói, niêm phong khi gửi giám định.

Toàn bộ số ma túy hoàn lại nêu trên, cùng với chiếc điện thoại di động hiệu Iphone vỏ màu hồng và một điện thoại hiệu Nokia màu đen cần chuyển đến kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Huế để phục vụ việc xét xử thi hành án.

Hồ Văn N có hành vi tàng trữ trái phép 02 chất ma túy được quy định tại điểm c, g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, nên việc xác định tình tiết định khung hình phạt được tính như sau:

Đối với 3,4532 gam ma túy loại MDMA, tỷ lệ phần trăm so với mức tối thiểu tương ứng quy định tại khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là: (3,4532: 5)x 100% = 69,0%.

Đối với 0,8735 gam ma túy Ketamine, tỷ lệ phần trăm so với mức tối thiểu tương ứng quy định tại khoản 2 điều 249 Bộ luật hình sự là (0,8735: 20) x 100% = 4,3%.

Tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng của hai chất ma túy trên là: 69,0%+ 4,3% = 73,3%.

Hồ Văn N tàng trữ trái phép hai chất ma túy với tổng tỷ lệ khối lượng các chất ma túy tàng trữ trái phép so với mức tối thiểu quy định tại khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là 73,3% (dưới 100%) nên hành vi nêu trên của Hồ Văn N đã phạm vào tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Đối với đối tượng tên “Quang”, do không xác định được nhân thân, lai lịch nên không có căn cứ xem xét xử lý.

Tại cơ quan điều tra, bị cáo Hồ Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 230/CT-VKS-HS ngày 14/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế quyết định truy tố bị cáo Hồ Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế thực hành quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hồ Văn N từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 gói ma túy đã giám định cùng các vật liệu dùng để bao gói, niêm phong khi gửi giám định; sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone vỏ màu hồng và 01 điện thoại hiệu Nokia màu đen.

Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt. Xét thấy sự vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án. Căn cứ điều 292, 293 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt họ theo thủ tục chung.

[2] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Huế, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Về tội danh: Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Hồ Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xét lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 00 giờ 50 phút ngày 13/7/2019, tại ngã ba đường Điềm Phùng Thị, phường Vỹ Dạ, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, Hồ Văn N đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý gồm MDMA và Ketamine thì bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Huế bắt quả tang.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma tuý của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện, trọng lượng ma túy do bị cáo tàng trữ là 3,4532gam ma túy MDMA và 0.8735g gam ma túy Ketamine. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế đã truy tố đối với bị cáo Hồ Văn N về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong qúa trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an, làm gia tăng tệ nạn và các tội phạm về ma tuý, gây ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của con người, huỷ hoại sức khoẻ, giảm khả năng lao động và là một trong những nguyên nhân gây ra các loại tội phạm khác. Tuy nhiên bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Số ma tuý mà Cơ quan điều tra Công an thành phố Huế đã chuyển giao cho Cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Huế là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để tịch thu tiêu huỷ; Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone vỏ màu hồng và 01 điện thoại hiệu Nokia màu đen là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội, có giá trị sử dụng nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Hồ Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Hồ Văn N 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 13/7/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên bố:

Tịch thu tiêu huỷ: 01 gói ma túy đã giám định được niêm phong kín;

Sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Iphone vỏ màu hồng; 01 điện thoại hiệu Nokia màu đen có số Imei: 354180104492360;

(Các vật chứng trên có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/10/2019 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Huế và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Huế).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Hồ Văn N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

363
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 242/2019/HSST ngày 12/11/2019 về tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:242/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;